.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2010

Tản văn Huỳnh Kim Bửu

Hình bóng cũ

        các làng quê xưa, hồi còn Nho học có ông thầy đồ dạy chữ Nho; thời kế tiếp có ông thầy giáo dạy chữ Quốc ngữ, ông này thường được gọi là ông giáo làng. Ong thầy đồ hay ông giáo làng được mọi người trong làng, trong xã trọng vọng.
         Có câu “Tiến vi quan thoái vi sư”, ai thi đỗ Cử nhân, Tiến sĩ thì được bổ làm quan, những người chỉ đỗ Tú tài thì không được bổ đi làm quan mà thường phải quay về làng mở trường dạy học và chờ khoa sau. Cũng có không ít ông quan vì chán cảnh quan trường thối nát mà sớm từ quan về địa phương mở trường dạy chữ Thánh hiền, họ cho như thế là có ích cho đời hơn. Thầy đồ thường là người ở trong làng, nhưng cũng có thầy đồ là người ở địa phương khác đến. Thầy giáo Hiến từ quê xa đến làng An Thái, phủ An Nhơn (Bình Định) mở trường “ngồi” dạy học, trong số các người thọ giáo, có ba anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, thật là một cuộc hội ngộ có quan hệ đến vận mệnh của lịch sử dân tộc. Học trò của thầy đồ là lũ con mình do bà đồ đẻ ra và lũ trẻ nhỏ trong làng cùng các làng khác. Ong thầy đồ có danh tiếng thì có đông học trò ở các nơi kéo đến học. Thầy đồ làng An Định là thầy Tú Lãng, người ở trong làng. Hằng ngày, học trò đến nhà thầy đồ nghe thầy giảng sách. Học trò học thầy Tú Lãng kiến thức và cách thầy tiếp nhân xử vật, lấy thầy làm khuôn mẫu để mà bắt chước. Hầu hết các thầy đồ đều gặp phải gia cảnh nghèo nàn. Thầy đồ Cao Bá Quát đã cực tả cảnh nghèo của mình:
 “Lều cỏ ba gian, một thầy một cô một chó cái
Học trò dăm đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi” (Câu đối dán ở trường học).
Ông thầy đồ dẫu nghèo đến đâu cũng không nhận học phí của học trò mà sống bằng sự tần tảo của bà đồ và niềm kỳ vọng vào sự thành đạt của học trò. Bởi vậy mà người học trò nào cũng thấy có bổn phận biết ơn thầy bằng việc “nấu sử xôi kinh” để chờ ngày đi thi đỗ đạt, cho “danh tôi đặng rạng, tiếng thầy đồn xa” (Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu). Phụ huynh học sinh cũng biết ơn thầy, bởi vì “muốn con hay chữ phải yêu kính thầy”, bởi cái đạo “Quân – Sư – Phụ” đã ăn sâu trong người ta từ bao đời rồi. Học trò “đi Tết” thầy theo lệ: Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy (Tục ngữ) “bịt khăn” để tang thầy khi thầy mất, ấy cũng là cách biết ơn thầy. Xã hội càng kính trọng thầy, thầy càng thấy mình có bổn phận dạy học trò cho nên người. Thầy Tú Lãng vẫn giảng cho học trò nghe câu trong sách xưa: “Dưỡng tử bất giáo phụ chi quá, huấn đạo bất nghiêm sư chi đọa; phụ giáo, sư nghiêm lưỡng vô ngại, học vấn vô thành, tử chi tội” (Có nghĩa là: Cha nuôi con mà không có dạy là cha có lỗi, thầy dạy bảo mà không có nghiêm cho học trò theo thì thầy trễ nãi; nếu mà cha dạy, thầy nghiêm mà con trẻ học không nên thì con trẻ mắc tội).
Ông giáo làng học chữ Quốc ngữ ở trường tổng, trường huyện, đậu lấy bằng Primaire (Tiểu học) mà không có điều kiện đi học tiếp trường tỉnh thì xin bổ làm hương sư dạy trường làng (còn gọi là hương trường). Đây là ông giáo trường công, có ăn lương do Nhà nước trả. Trường làng dạy các lớp năm, tư, ba của những năm đầu bậc Tiểu học, để lên trường tổng, trường huyện học tiếp 3 năm nữa thi lấy bằng Primaire. Cũng như thầy đồ, thầy giáo trường làng mặc áo the, đi guốc mộc, sống đời thanh đạm, lấy nghề “gõ đầu trẻ” làm nghề cao qúy. Tại sao có chuyện “gõ đầu trẻ” ở đây? Vì hồi xưa, xã hội cho phép thầy giáo “lằn lưng chẳng khỏi vệt dăm ba” (Rắn đầu biếng học – Lê Qúy Đôn) đối với những học trò lêu lổng. Học trò trường làng là những trẻ nhỏ trong làng, tuổi lên 7 – 10. Ngày đầu mẹ dẫn đi học lòng cậu bé nào mà chẳng “hoang mang”: ”Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này, tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học (Thanh Tịnh). Tới tuổi cắp sách đến trường, cũng như bao đứa trẻ khác trong làng, tôi được mẹ dẫn đi học trường làng Háo Trung. Tôi cũng lòng hoang mang, e lệ, rụt rè như lũ thằng Ngà, thằng Ngọc đang đứng bên tôi. Trường Háo Trung ở một góc sân đình An Định, một dãy nhà tường xây gạch hôm vôi trắng, mái lợp ngói chia làm ba phòng học:
“Trường làng tôi hai buổi gió hàng cây
Mặt trời mọc soi dấu ngày cửa lớp
Mùi thơm lúa thơm ngô nồng vào buổi học
Tiếng trẻ học bài lấp lánh cánh cò bay”
(Huỳnh Văn).
Sân trường có cây bàng cổ thụ che bóng mát cho lũ học trò chúng tôi ra chơi. Thầy Huệ, thầy Bình, thầy Phương dạy tôi 3 năm học. Thầy Huệ là người trong làng. Qúy thầy giáo đã vắng bóng trên cõi đời này từ lâu lắm, còn lũ chúng tôi theo học qúy thầy thuở tóc xanh mà nay ai cũng phơ phơ đầu bạc. Vậy mà ngày nay mỗi lần gặp lại nhau, chúng tôi vẫn thi nhau nhắc lại chuyện trường xưa, thầy cũ. Tai tôi và bạn bè như đang nghe giọng thiết tha mà ấm áp của thầy Phương – thầy Đốc trường trong giờ lịch sử:
“Xoay vần trong cuộc tang thương
Trải bao phân loạn mới sang trị bình
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh
Con quan thứ sử ở thành Hoa Lư…” (Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca - Phạm Đình Toái).
Trước mắt tôi và bạn bè đang hiển hiện hình bóng thầy Huệ vẫn cúi xuống cầm tay cho thằng Tý, thằng Tỳ và bao đứa khác trong giờ Tập viết, thầy Bình một hôm giảng xong bài “Thương yêu kẻ tôi tớ”:
“Kẻ ăn người ở trong nhà
Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn
Thương người đày dọa chút thân
Chớ nên ngược đãi lòng nhân mới là” (Quốc Văn Giáo Khoa Thư, lớp Đồng ấu) thầy khóc hu, hu… khiến lũ học trò chúng tôi khóc theo. Trong lớp ba của tôi, có 30 trò, toàn là trò nam, không có ai nữ. Những học trò giỏi được thầy Đốc trường thương lắm; những trò học yếu kém được thầy Đốc trường gần gũi, chăm sóc hơn.   
           Thầy Tú Lãng là thầy đồ cuối cùng của làng An Định, ngày tôi lớn khôn một chút thì thầy đã là lớp người xưa nay hiếm. Nhà thầy Tú Lãng vẫn tiếp những người đến thưa thầy “xin chữ”, xin câu đối dán mấy ngày Tết, mời thầy xướng họa thơ phú... Và thầy Tú thì luôn có tấm lòng hoan hỷ với mọi người. Sau này, quý thầy giáo khác cũng vậy. Thầy Huệ về hưu rồi vẫn ngồi nhà tiếp người này người nọ, trong đó có nhiều học trò cũ, đến thăm và muốn nghe thầy giảng giải cho mấy câu ca dao tục ngữ, vài chuyện trong lịch sử mà họ muốn tìm hiểu. Nhà trọ thầy Bình vẫn có khách, thường là mấy người sắp đi làm phu đồn điền cà phê, cao su đến nhờ thầy dạy cho đôi câu tiếng Pháp để làm hành trang đi “tha phương cầu thực”, mấy anh thanh niên yêu nhạc đến xin học ngón đàn Mandoline réo rắt của thầy. Nhiều thầy giáo làng tiếp thu sớm nhất những tư tưởng mới lạ, tiến bộ nhờ thầy đọc được ở trong sách,  rồi thầy tuyên truyền, thức tỉnh những người khác (như Thầy giáo Thứ, nhân vật của nhà văn Nam Cao). Người cao niên, người trung niên, người trẻ trong làng An Định, ai cũng kính trọng gọi thầy Tú Lãng là nho sĩ, thầy Huệ, thầy Bình, thầy Phương là những nhà “mô phạm”.
           Nhiều người chiêm nghiệm ra một điều, ai biết nhớ tới trường làng, thầy giáo cũ là có thêm một niềm hạnh phúc, vì họ được gặp lại kỷ niệm êm đềm xưa, hình bóng dễ thương của mình thời thơ ấu:
 “Những năm tôi học ở trường quê
Tôi thấy lòng tôi cảm nặng nề
Những buổi thu sương buồn ảm đạm
Trống trường vang dội phía sau đê
Phía ấy thầy tôi thường hỏi hướng
Tôi vòng tay đáp: Dạ phương Đông (Sách Quốc văn cũ).


2 nhận xét:

Huỳnh Kim Bửu nói...

Chào Trần Quang Lộc, xin chúc mừng anh đã có được blog mới.Thân, HKB.

TRẦN QUANG LỘC nói...

Chuc anh vui khoe va sang tac hay.