.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2011

Elena Pucillo Truong ( Italia)
Nguyên tác : Sempre mano nella mano
( Bản dịch của Trương Văn Dân)

Tiến sĩ ngữ văn Elena Pucillo Truong là một cô dâu Việt quốc tịch Ý. Vì cây dây leo, có thời chị đã theo chồng sang TPHCM dạy tiếng Ý tại nhạc viện TPHCM. Chồng chị là dược sĩ Trương Văn Dân, dịch giả văn học Ý sang tiếng Việt. Tự nhận mình là “người yêu Việt Nam” ( L’amoureuse du Viet Nam) – đúng vậy, không yêu sao lấy chồng Việt lại cả gan làm dâu trưởng nữa?- chị và chồng quyết định sống đời hưu trí ở TPHCM để phụng dưỡng mẹ già và viết văn. Từng cộng tác với một số tờ báo văn học Ý, Elena còn viết truyện ngắn nữa. Truyện Bàn Tay Trong Một Bàn Tay vừa viết ở Sài Gòn của chị do anh Dân dịch sang tiếng Việt, là tiếng nấc cho kiếp người, Ý hay VN thì cũng thế. Một tiếng nấc bất khả kháng nhưng không buồn mà nồng ấm, không thảm mà nhen nhóm hy vọng, dù mơ ước da diết nhất của hai nhân vật yêu nhau đến phút cuối đời chỉ là được chết bên nhau. Truyện rất ngắn, chỉ là vài nhát cắt, nhưng có bề dày và sức nặng của hai cuộc đời biết sống, đáng sống, ai bảo truyện ngắn là ngắn?
Nguyễn Quang Thân  
Lớp trẻ, tuổi ba mươi, bốn mươi…lúc nào cũng vội vàng, hấp tấp, đi và đến trên các phương tiện tân thời, xe hơi, bus, taxi…họ chìm giữa tiếng ồn ào của cuộc sống bon chen đô thị, giữa những cao ốc nguy nga, hàng dãy bảng hiệu với ánh đèn chiếu sáng, biểu tượng của một thế giới hiện đại và lý tưởng đang phát triển, mang vẻ ngoài đẹp đẽ và trẻ trung…
Có hai người già lạc lõng, rải bước đến chiếc băng gỗ quen thuộc đặt ở góc công viên. Tay trong tay, nụ cười như in trên hai khuôn mặt đã có nhiều nếp nhăn theo năm tháng. Ông lão nắm tay bà, cẩn trọng đỡ người bạn đời của mình, nhẹ nhàng giúp bà ngồi xuống một cách thoải mái. Mỗi cử chỉ của ông đều lịch sự, chậm rãi và cẩn thận, cùng những lời yêu thương ngọt ngào, như ông đang che chở và ve vuốt một chú chim non.
Ngày nào cũng thế… tôi chẳng biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng có lẽ từ lâu lắm. Mỗi ngày mỗi khác và nhìn qua cũng dễ nhận ra tình cảm giữa hai người vẫn thiết tha, mạnh mẽ. Nó tương phản hoàn toàn với thế giới ồn ào xung quanh như một nghịch lý.
Cái vũ trụ thu hẹp của họ, có những vụn bánh cho vài chú chim sẻ, có những cái vuốt ve cô mèo con bị lạc hay tiếng cười rạng rỡ của một em bé đang tập đi đang ngã vào vòng tay người mẹ nào đó. Hai người luôn mang theo chiếc dù, để che nắng hay phòng ngừa sự chòng ghẹo trái nết từ những cụm mây. Riêng bà thì không bao giờ quên chiếc khăn quàng khổ rộng, sau khi ngồi vững, bà liền âu yếm quấn quanh cổ ông, những cơn gió lạnh đang thổi về.
Tôi tưởng đó là một bức tranh đang đặt trước mắt mình; cảnh thực đó đang nằm ngoài thế giới này. Chẳng biết gì về họ nhưng lâu nay tôi không thể làm gì khác là nhìn ngắm và quan sát họ cho đến khi, sau chừng một giờ, bằng những cử động ban đầu yếu ớt, về sau mạnh mẽ hơn, họ chống tay đứng dậy rồi tay nắm tay bước đi cho đến lúc mất hút giữa dòng người vô cảm.
Rồi sau đó thì sao? Họ sẽ làm gì quãng thời gian còn lại trong ngày? Tôi tưởng tượng  mình đang tò mò theo dõi, bị cuốn hút bởi thứ hào quang hạnh phúc bao quanh họ. Một cuộc đời đơn giản. Chỉ có những cử chỉ quen thuộc nhưng ngọt ngào và trìu mến dành cho người thân. Dĩ nhiên tôi khó mà tưởng tượng ra họ thường có những cơn ác mộng hoặc trong lòng họ đang chất ngất bao điều ưu tư. Đương nhiên, hằng ngày họ có thể vẫn lo lắng và đau khổ, có thể một nỗi đau khủng khiếp sẽ cướp mất hơi thở tối cần cho cuộc sống của người già.
*
Trong bóng tối buổi chiều tàn, bà vợ mắt nhắm nghiền, nằm bất động trên chiếc giường đôi. Hai bàn tay bà đặt trên ngực, những ngón tay nắm chặt chuỗi tràng hạt. Trên chiếc ghế đẩu đặt cạnh giường, ông chồng ngồi gục đầu, kiệt sức sau một cơn khóc tuyệt vọng. Ông liên tục lau mặt bằng chiếc khăn giấy đã ướt rã nước mắt. Rồi, bất thình lình, trong tay ông loé lên ánh thép lạnh lẽo của một khẩu súng. Ông đăm đăm nhìn họng súng, những giọt nước mắt vẫn tiếp tục rơi, làm ướt nòng súng lạnh giá. Ông thì thầm vài lời gì đó, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Chỉ trong tích tắc.
Bàn tay rớt xuống! Chẳng có tiếng nổ nào xảy ra.
Hình như trong phút chót sự can đảm đã biến mất…
Cuối cùng ông dợm đứng lên, lấy lại tự chủ, rồi đặt khẩu súng trong ngăn kéo chiếc bàn đêm đầu giường.
*
Bây giờ tới phiên ông.
Ông nằm bất động trên chiếc giường đôi, mắt nhắm nghiền và cũng với chuỗi tràng hạt trên tay. Bà vợ, thận trọng và run rẩy đặt một bàn tay lên trên quyển sách nằm trên ngực chồng. Đó là quyển sách mà ông đã viết và nó sẽ theo ông làm bạn trong thế giới bên kia. Một vài giọt nước mắt ứa ra, rớt xuống trang bìa và làm ướt những ngón tay khẳng khiu, gầy yếu… Rồi bà lão như kiệt sức, ngã gục xuống chiếc ghế đặt cạnh giường. Những ngón tay bà cố gượng vuốt ve, lướt nhẹ lên thân thể thân thương. Bà vuốt đôi mắt, vành môi, khi vuốt đến ngực, bà ngập ngừng dừng lại, như muốn vuốt ve cả trái tim ông… Cuối cùng bà áp tay mình lên bàn tay ông, bàn tay đã từng nâng đỡ và che chở bà suốt một cuộc đời. Nước mắt bà vẫn tiếp tục lăn xuống nhưng bà chẳng có chiếc khăn nào để ngăn chúng lại. Sau những tiếng rên rỉ, bà thì thầm bên tai ông những lời ngọt ngào như đã làm thế trong suốt một đời. Rồi gượng đứng lên, bà áp môi mình lên môi ông, thêm một lần nữa, nụ hôn cuối cùng.
Run run, bà với tay lấy khẩu súng đặt trên chiếc bàn đêm. Một tay nắm chặt tay chồng, còn tay kia, rất tự tin, bà đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Cũng chỉ một tích tắc. Rồi bà ngã xuống trên xác chồng, muốn ôm lấy ông một lần cuối.
Cứ thế, từ hai tháng nay mỗi buổi tối cảnh đó luôn được lập lại như đang diễn trong rạp hát.
Mọi chuyện bắt đầu từ sau hôm đi khám bác sĩ. Trước đó bà thường thấy mệt, nhiều lúc thở rất khó khăn, như bị ngạt, như có một khối đá đè lên lồng ngực trong những chuyến cùng chồng đi dạo. Tay trong tay, trong nước mắt, họ lắng nghe phán quyết của thầy thuốc.
“Tôi rất lấy làm tiếc nhưng trái tim của bà nhà rất yếu…giải phẩu là điều không thể thực hiện nữa… Rất tiếc là tôi không biết phải làm gì để có thể giúp bà, nguy cấp lắm rồi, bà yếu quá…”. Trả lời câu hỏi thầm lặng từ đôi mắt đau đớn và khẩn cầu của họ, ông bác sĩ ngập ngừng nhưng xúc động thành thật:
“Rất tiếc…điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào….”
Sau đó thì hai người già vẫn tiếp tục sống như đã từng sống, nhưng ý nghĩ là bà sẽ đột ngột ra đi, bỏ ông lại một mình vẫn ám ảnh ông mỗi ngày. Bà, người chưa bao giờ rời xa, chưa bao giờ phản bội ông.
Bởi, suốt một đời họ đã luôn sống bên nhau. Trong một thoáng bà hồi tưởng thời hai người còn trẻ, những cử chỉ ngập ngừng và vụng về trong mối tình đầu, trái tim bà chỉ đập khi chờ đợi ông, chỉ vì ông, người đàn ông duy nhất có thể lấp đầy cái khoảng trống trong tâm hồn bà; cũng như chỉ cái nhìn nhân ái của ông mới có thể xoa dịu đi nỗi đau hay mang lại cho bà niềm hạnh phúc. Cứ thế, họ đã sát cánh bên nhau đi qua cuộc đời này. Rồi họ cùng nhau nổi tiếng với các nhà hát kịch trên thế giới. Trên tường nhà họ hiện vẫn còn treo đầy các biểu ngữ giới thiệu các vở kịch Shakespeare, Mann, Eliot, Racine, Molière, Pinter…. có tấm in khuôn mặt, miệng mỉm cười của họ, có tấm chụp họ đang mặc đồ diễn trên sân khấu, đứng giữa những bạn diễn thân thiết mà đến nay tên tuổi vẫn còn sáng chói. Hình như hào quang hạnh phúc đã bao quanh họ từng ngày. Và họ luôn ở bên nhau.
Có lẽ trong cuộc sống hạnh phúc và bình an đó, chỉ có một nỗi đau trong trái tim bà, đó là họ không thể có một đứa con… điều duy nhất của riêng họ, chỉ của họ mà thôi. Nhưng mỗi lần bà vật vã, chỉ cần những lời ngọt ngào của chồng “ Em yêu ơi, xin em đừng tuyệt vọng, không có con chúng ta sẽ yêu nhau nhiều hơn…” là có thể làm dịu đớn đau, xua nó đi, dù chưa hoàn toàn xoá mất.
Rồi cuộc sống đổi thay. Thăng trầm. Chìm nổi. Có lần họ cũng rơi vào cảnh nghèo túng vì từ chối các vai diễn không phù hợp hay không chịu ký hợp đồng với những công ty ca kịch không hoạt động vì nghệ thuật… và cuối cùng, với tuổi tác, họ bình thản từ giã ánh đèn sân khấu, chấp nhận cuộc sống giản đơn, bùi ngùi nhìn lại những kỷ niệm sáng ngời trong quá khứ. Nhưng họ luôn ở bên nhau, luôn luôn hạnh phúc vì người này chỉ sống cho người kia. Và ngược lại.
*
Là những diễn viên tài hoa nên mỗi buổi tối họ đều tự chuẩn bị vai diễn của mình, cố thể hiện thật xuất sắc vai được giao cho họ trong kịch bản cuối cùng.
“ Cái chết. Sự chia lìa sẽ bất ngờ là điều không thể tránh khỏi. Nhưng người nào đi trước sẽ không phải hứng chịu nỗi cô đơn ở thế giới bên kia”.
Ông thường đi lập lại rất nhiều lần:“ Ước muốn lớn nhất là chúng ta có thể chết cùng một lúc, nhưng dễ gì Chúa ban cho ta ân sủng này!”
*
Nhưng, ông đã lầm…
Vài tháng trôi qua. Và chỉ có vài hàng trên một tờ báo.
Trong lúc ngủ trái tim mệt mỏi của bà đã vĩnh viễn ngừng đập. Và ông, bất thình lình thức giấc, tin là còn có thể cứu bà, ông lao tới chụp ống điện thoại để gọi xe cấp cứu nhưng không kịp nữa. Trái tim của ông cũng ngừng đập vì đau đớn, nó chỉ cho ông một tích tắc để đưa cánh tay nắm lấy tay bà.
Đúng là sự việc chỉ xảy ra trong tích tắc.
Sai Gon tháng 8/2011
Elena Pucillo Truong

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011




Tản văn của Huỳnh Kim Bửu



Tản mạn văn hóa đọc
“Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”




Văn hóa đọc đang là câu chuyện thời sự được nhiều người quan tâm, có không ít người đã liên hệ chuyện đọc sách của các cụ thời xưa với cái văn hóa đọc thời nay để biết xưa sao, nay thế nào mà buồn vui mà trăn trở cùng người.

Ở quê tôi hồi xưa, không ít bà nội trợ mỗi lần đi chợ mua sắm, thường không quên ghé lại hàng cườm, chọn mua vài cuốn sách bỏ trong rổ đi chợ đem về. Khi mua sách, các bà không khỏi thầm bảo: “Bắt con cháu đọc nghe chơi”. Tại sao, các bà không tự đọc sách mà bắt con cháu đọc cho nghe? – Đó là do họ sống trong thời dân ta tới hơn 90% dân số bị nạn mù chữ, mười bà mua sách kia, tới hơn 9 bà không hề biết đọc.
Những sách các bà (cũng có khi các ông) đi chợ mua về, thường là các tiểu thuyết Trung Quốc (Tam quốc chí, Thủy hử, Thuyết Đường, Tây du ký…) viết theo lối chương hồi, rồi  truyện thơ Việt Nam (Lục Vân Tiên, Kim – Vân - Kiều truyện…), truyện dân gian Việt Nam diễn bằng văn vần (Thoại Khanh – Châu Tuấn, Chàng Nhái – Kiểng Tiên, Mục Kiền Liên…). Còn phải kể thêm, họ cũng thích đọc những tiểu thuyết Việt Nam viết những chuyện diễm tình mà duyên nợ éo le, không thành, khiến ai đọc cũng động mối thương tâm, như: Giọt máu chung tình (tác giả Tân Vân Tử), Tố Tâm (Song An Hoàng Ngọc Phách) Bên dòng sông Trẹm (Dương Hà)… Những sách trên đều do Nhà Tín Đức Thư Xã, trong Chợ Lớn – Sài Gòn in, theo công nghệ hồi đó, không đẹp, bán với giá vài hào một tập mỏng. Còn những cuốn sách giáo khoa như Việt Nam giáo khoa thư, do nhóm ông Trần Trọng Kim biên soạn, Đại Nam quốc sử diễn ca của ông Phạm Đình Toái thì con cháu học tới đâu, ông bà, cha mẹ (nghe) theo tới đó, lấy làm thích thú và cũng mau thuộc bài. 
Nhờ đọc sách theo kiểu đó mà dân ta (có tới hơn 90 % dân số không được đến trường -  như đã nói ở trên) có kiến thức, vốn liếng hiểu biết, đào luyện được tâm hồn, bồi dưỡng nên tình cảm. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ dân gian là túi khôn muôn đời của họ. Sách lịch sử, sách văn học làm cho họ biết sử Tàu, sử ta, yêu thêm cuộc sống, biết những giá trị Chân – Thiện – Mỹ ở đời mà theo đuổi. Thế là trong họ, không thể thiếu cuốn sách. Hồi xưa, vào trong làng, khách thường nghe tiếng đọc sách. Người ta bảo ban nhau, nhà không có tiếng đọc sách là nhà tầm thường. Nhà có con cái đi học, cha mẹ vẫn nhắc nhở “đèn sách”, cuốn sách vẫn đêm đêm mở trước ngọn đèn dầu nửa tỏ nửa mờ, cho nên mở đầu Lục Vân Tiên, cụ Nguyễn Đình Chiểu mới viết: “Trước đèn xem truyện Tây Minh”. Người ta tin ở sách đến nỗi trò chuyện với nhau, cũng đòi “nói có sách, mách có chứng”, ghét thói ăn nói “vô sư vô sách”, khen người chăm đọc sách:“Chu Mãi Thần vai gánh củi, miệng hằng đọc sách”. Thật là tuyệt vời, khi người ta còn để cho trái tim rung cảm trước vẻ đẹp liên quan với sách: “Sáng trăng trải chiếu hai hàng / Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ” (Ca dao).Và cũng thật tuyệt vời, khi ở trong các làng quê, ta gặp những cụ già ngồi đọc thuộc lòng từ đầu đến cuối Lục Vân Tiên, Kim – Vân - Kiều truyện (tên sách các cụ thường gọi thay cho tên Truyện Kiều)… Thử hỏi cử nhân, tiến sĩ giấy thời nay, ai chịu nổi?

Trên đây, nói chuyện người bình dân với sách. Còn sĩ tử, nhà Nho đối với sách như thế nào? Các cụ nhà Nho bảo “Độc thư cao” (đọc sách là thú thanh cao, cái thú của người thanh tao, cao nhã ) hô hào “tích thư” (chứa sách), chăm chú, siêng năng đọc sách để tìm trong sách vànglúa, tìm trong sách người con gái nhan sắc ngọc ngà (Thư trung hữu kim túc, thư trung hữu nữ nhan như ngọc). Nối tiếp giới nhà Nho cựu học là giới trí thức tân học. Giới này có nhiều người cho thấy rõ sự thành đạt, nổi tiếng là nhờ tự học, nhờ đọc sách, chứ không phải nhờ bằng cấp, khoa bảng, do các nhà trường cấp. Họ thực là một tấm gương sáng về đọc sách, tự học và nghiên cứu. Đó là nhà văn Nguyễn Hiến Lê với sự nghiệp trước tác đồ sộ, nhà báo, nhà văn Phạm Quỳnh khi ông là chủ bút tạp chí Nam Phong; còn nhiều vị, nhà trí thức tầm cỡ khác nữa. Một thời, người ta vẫn nhắc tới những thư viện Nguyễn Hiến Lê, Phạm Quỳnh, Phạm Liệu, Vương Hồng Sển, Đông Hồ (với Diễm Diễm thư trang), Quách Tấn, Lê Ngọc Trụ…Và thành tích “tích thư” của những thư viện đó. Ông Lâm Ngữ Đường (1895 – 1976) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Giới ham đọc sách, giới trí thức Việt Nam đã tiếp nhận câu nói (vừa hóm hỉnh vừa nghiêm túc) của ông về đọc sách từ giữa thế kỷ trước: “Người trí thức ba ngày không đọc sách, nhìn vào gương thấy mặt mũi khó coi mà ăn nói cũng nhạt nhẽo, khó nghe” để tự nhủ mình, không bao giờ dám xao nhãng việc đọc sách.

Xưa, văn hóa đọc vui thế. Nay, văn hóa đọc sút giảm như thế nào và tại sao?
Việc sút giảm, ai cũng biết, vì báo chí đã báo động. Xin kể vài mẩu chuyện như để minh họa: Tôi có ba anh bạn viết văn. Anh thứ nhất, xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 10 của mình,  tặng cho anh bạn thân (có bằng Kỹ sư) một tập. Mấy tháng sau, hai người gặp nhau:
-Sách ông tặng, tôi mới đọc được 6 chữ: Tên tác giả và tên sách in trên trang bìa cứng, ông Kỹ sư nói.
-Cảm ơn, vậy là ông còn siêng đọc hơn người nhiều người bạn khác của tôi, nhà văn nói.
Anh thứ hai tặng anh bạn thân là giáo viên Văn một trường Cấp 3 tập tiểu thuyết thứ 4 của mình. Một tháng sau, nhà văn gọi điện, hỏi: “Ông đã đọc sách tôi tặng chưa? Được trả lời: “Mình đọc 5 trang, rồi bận quá, bỏ luôn”. Anh thứ 3, (tác giả 1 tập truyện ngắn, 1 tiểu thuyết). Trong một cuộc trà dư tửu hậu, tôi hỏi, ông thấy thế nào về thơ văn hiện nay? Nhà văn trả lời: “Văn, được vài tập truyện ngắn, còn thơ thì bái dài, vì nhà thơ cách tân quá, mình đọc không hiểu!”
Tôi có gặp một bài báo, tác giả tổng hợp những số liệu về tình hình đọc sách trên thế giới. Ở Nhật, tờ Yomiuri Shimbun (tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất ở Nhật) mở một cuộc điều tra. Hỏi 1869 người về đọc sách trong tháng, được kết quả như sau: 1 / 2 nói quá bận, 18 % nói không quan tâm. Ở Hồng Kông, nơi có nhiều loại hình giải trí, đặc biệt là karaoke, điện ảnh… Kết quả trả lời, lặp lại như ở Nhật. Thái Lan 55, 3 triệu dân biết đọc, nhưng chỉ có 61 % thường đọc mà 2 / 3 trong số đó đọc báo, số còn lại, 1 / 2 đọc tiểu thuyết và truyện tranh.

Bây giờ văn hóa đọc xuống cấp toàn cầu, chứ không riêng gì ta! Nhưng dù sao, đọc sách cũng là một nét văn hóa, lại là cấp cao, cho nên ta phải tìm cách chận đứng đà xuống cấp và phát triển nó chứ? Giải pháp gì, thật khó. Người đọc sách ít mà ai có đến với sách thì cũng mua sách đẹp về chưng, còn đọc thì đọc trên mạng, theo lối lướt web. Vậy thì đề nghị, ngày nay ta cứ như hồi xưa, in sách cầu tiện lợi (theo kiểu những mặt hàng tiện lợi khá phổ thông thời nay), bán với giá rẻ, để cho người ta dễ mua, bỏ túi, tranh thủ lúc rảnh đọc, chứ đừng bài bản quá. Dù sao, sách cũng phải là sách hay. Nhớ hồi xưa mà thèm, cuốn sách người ta đọc tới nhàu nát, phải hô “giấy rách giữ lấy lề”, còn bây giờ sách cứ dày cộp, bìa cứng, mười năm còn mới tinh trong tủ.