.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Huỳnh Kim Bửu kể chuyện làng
15:19', 22/9/ 2011 (GMT+7)
* Ký của Lê Hoài Lương
Trong bài “Phong vị một vùng đất” viết về cuốn sách “Nơi con sông Côn chảy qua” (NXB Trẻ, 2009) của Huỳnh Kim Bửu, tôi có gọi ông là người kể chuyện làng, người kể chuyện phong hóa phong vị một vùng đất, và khẳng định, “chuyện kể của ông còn dài”. Thì đúng là 2 năm sau, ông cho in cuốn sách tiếp theo “Trong như tiếng hạc bay qua” (NXB Hội Nhà Văn, 2011). Cũng đầy đặn và xinh xắn, cả số lượng “chuyện kể”, thêm nét duyên càng lúc càng đằm.

Nhà văn Huỳnh Kim Bửu.
Và khi cuốn sách mới này gửi đi in, ông vẫn “kể” không ngừng, vẫn in đều đều trên các diễn đàn, tới giờ cũng đã hòm hòm một cuốn sách nữa. Ở mảng này, trên nhiều báo, tạp chí, và trong công chúng, Huỳnh Kim Bửu đã thực sự là một “thương hiệu”.
1.
Thương hiệu của ông là tự nó, tự những câu chuyện đến với bạn đọc. Nó đến từ từ, theo cái cách chơn chất, lành hiền, tỉ mỉ, và giọng kể điềm đạm, thủ thỉ nhẹ nhàng, rặt chất Bình Định. Ông làm ta cứ thỉnh thoảng ồ lên, hoặc gật gù tán thưởng những chi tiết đời sống nông thôn đã xa giờ được nhắc lại, chúng ta thưởng thức và hồi tưởng vì các chi tiết sống động này hầu khắp chúng ta đã trải, thuở làng chưa xa mà giờ thành xưa lắm, vì có thể nói phần lớn đã không còn nữa.
Ông có nhiều đồng cảm vì phần lớn chúng ta thị dân nay, gót chân vẫn còn nồng mùi bùn đất, cái móng chân còn sánh vàng phèn. Và cái chính là cách kể chuyện của ông. Dụng công của ông gọn lỏn có một tiếng: thật! Thật đến mức ta thấy ngay cảnh sinh hoạt ấy, món ăn, trò chơi, không gian cảnh sắc, không khí  ấy…, và khi ông ngừng kể ta mới vẩn vơ nuối tiếc khi nhận ra rằng, cảnh và người quen thuộc ấy đã xa.
2.
Đề tài làng của Huỳnh Kim Bửu phong phú đến ngạc nhiên. Đó là những trò chơi, những thú vui con trẻ, những sinh hoạt, tập tục quanh nếp nhà nông thôn, những sản vật, những danh thắng, những mảng văn hóa, lịch sử lớn của miền đất võ, đất hát bội, đất văn chương Bình Định.
Tất nhiên là từ bối cảnh quanh cáo xóm Miễu Tây, cái làng An Định, Nhơn An quê ông, và làng quê quanh thành xưa Bình Định, đế đô mấy vương triều. Tất thảy gắn cụ thể với tên đất tên người vì là kể chuyện người thật việc thật, chứ chuyện “làng” của Huỳnh Kim Bửu còn mang nét chung vùng nam Trung bộ. Ngay cả tên người thật cũng không phải nhắc tên cho chuyện ra vẻ thật, những bà Hai Cảnh, ông năm Rự, ông Tú kép Bình An, ông Hương hào Nhuệ, ông Cử nhì Thái Thuận, thầy Tú Kỉnh, ông Tư Đồ, ông Ba Thơm…, những bà những ông này luôn gắn với một phần máu thịt hồn cốt nào đó của ký ức làng, người dạy học, người giỏi kể chuyện đời xưa, người làm món ăn nổi tiếng, người hát hay, võ giỏi, nói rốt lại, phần đông họ đã là người của muôn năm cũ, họ đã là làng, vừa bàng bạc khói sương vừa vọng động.


Và một người nữa, nhân vật kể chuyện. Lúc ở vai thứ nhất, xưng “tôi” để kể, lúc ở ngôi thứ hai, gọi là “chú”, chú nhỏ, là tác giả của thuở lên mười, mười lăm. Huỳnh Kim Bửu đã, đang làm công việc của nhân vật ông Tư Đồ kể chuyện cho trẻ nhỏ quanh vùng, và vì vậy, tác giả- người kể chuyện- nhân vật, hòa vào nhau, tất cả cứ hiện lên, khi tách bạch khi nhập nhòa nhưng thật tự nhiên, như không thể khác. Có lẽ điều này cũng góp phần làm nên sức thuyết phục, làm nên cái duyên riêng của người kể chuyện làng.
3.
Đọc Huỳnh Kim Bửu một cách tập trung thấy các câu chuyện đến với ông như một tình cờ, như một gợi ý vô tình nào đó và ông chợt nhớ ra, rồi kể. Có khi từ một ý thơ, một câu thơ của các thi sĩ nổi tiếng mọi thời. Từ ca dao, dân ca. Có khi từ một câu nói, một trò chơi con trẻ. Một món ăn, một phút chuyển mùa. Nhưng tất cả phải gắn với làng xưa. Tất cả đã và đang mất đi, tất cả vọng lên đẹp và buồn.
Kể chuyện làng, Huỳnh Kim Bửu đã chạm thấu tới vẻ đẹp ánh tà huy hoài niệm, bởi vì, như một thứ nguồn cội dù biết khó thể níu giữ trong đời sống thực hiện nay, việc kể lại chuyện làng theo cái cách của ông là một kiểu lưu giữ và trân trọng, nâng niu. Nó thành một miền riêng lặng lẽ nuôi dưỡng hồn người, không hẳn “vãng cổ khả dĩ tri kim” theo kinh sách thánh hiền, nó là thương và nhớ một thuở cha ông. Là văn hóa.
Bài nào, chuyện kể nào của Huỳnh Kim Bửu, ngoài nội dung kể chính cũng có hoặc những câu ca dao, dân ca, thành ngữ tục ngữ hay các câu thơ của những nhà thơ nổi tiếng đã in đậm trong trí nhớ ông được trưng kèm, như minh họa, như liên tưởng. Từ hai cuốn sách đã kể, thử giở bất kỳ, thấy trang nào cũng có những câu in nghiêng các thể loại ấy, nó xuất hiện với tần suất thật đậm đặc. Nó là một sự phối hợp tốt, câu chuyện thoảng ngắt quãng thêm chút mơ màng, phần minh họa- liên tưởng này nếu tách bạch thì cũng làm nên nét riêng khi kể chuyện. Thực ra nó không hề làm hư ảo chuyện cho thêm gia vị, nó cũng là nội dung, cũng là làng. Nó xuất hiện vừa gợi ý vừa hiển nhiên, và chắc rằng nó đã thành ký ức, thành máu thịt của người kể chuyện.
4.
Tiếp xúc, nói chuyện thấy Huỳnh Kim Bửu là người có trí nhớ rất tốt, kiến văn rộng, nhất là mảng văn hóa Đông phương, mảng phong hóa làng nam Trung bộ, làng quê Bình Định. Nên ông không làm công việc một nhà sưu khảo phong hóa, không kỳ khu tra cứu, biện luận, chỉ kể, nhiều khi cũng rất tỉ mỉ và nhiều xúc cảm, nhưng là kể. Ví dụ viết về món ăn, món bánh xèo chẳng hạn, cũng mô tả các loại bánh xèo, cách đúc cách ăn, nhưng “Đông… ăn bánh xèo’’ không thiên về bài viết ẩm thực, ông kể chuyện nhà bà hai Ngót cha con chồng vợ quây quần bên tiệc bánh xèo xúm xít vừa đúc vừa ăn trong không khí gia đình thật ấm nồng.
Từ ý thơ người trước “thu ăn măng trúc đông ăn giá’’, chuyện ăn bánh xèo mùa đông của làng quê Huỳnh Kim Bửu đã là chuyện làng. ‘‘Khách thăm quê tôi dịp tiết trời Đông dễ gặp những xóm nhà phủ cơn mưa, tỏa xực nức mùi thơm bánh xèo lên không trung, dễ gặp bữa cỗ bánh xèo được chủ nhà mời ăn với cả tấm lòng xởi lởi và hiếu khách’’, và, ‘‘Nhà đúc bánh xèo luôn dành những phần bánh xèo để biếu hàng xóm, “lại quả’’ nhà kia nhà nọ vì họ đã cho mượn bộ khuôn sắt hãy còn bóng dầu mỡ, cái hỏa lò hãy còn dính nhiều vệt trắng của bột bánh xèo đổ leo, và cả ông đầu xóm có cái cối đá xay bột khô và bột nước đã sẵn lòng dành cho một bữa xay bột nhờ… Thành ra lắm khi trong xóm miễu Tây của tôi một nhà đúc bánh xèo thôi là cả xóm được ăn bánh xèo.’’
Như đã nói, Huỳnh Kim Bửu không thích tư biện, chỉ thường bộc lộ cảm xúc, những u hoài có phần nuối tiếc những vẻ đẹp đã và đang dần lui vào quá vãng.  Sự nuối tiếc và trân quý những hồn cốt làng khiến ông đôi khi có những liên tưởng độc đáo. Ví dụ, bài viết về các trò chơi con trẻ ngày xưa, các trò chơi đồ chơi thường tự tạo, sau khi kể tỉ mỉ các nhóm đồ chơi: nhóm tạo tiếng, nhóm nặn tượng, nhóm cơ khí, nhóm ngẫu hứng, nhóm nào cũng thật nhiều sáng tạo thú vị, đòi hỏi sự khéo léo và nhiều trí tưởng tượng, ông kết chuyện thật bất ngờ: ‘‘Xưa ông cha và cả thế hệ chúng tôi (nay đã đầu hai thứ tóc) sống tuổi thơ của mình thiếu thốn, nghèo nàn, lây lất quá! Chẳng biết đầu óc của những ông Hai Lúa nổi tiếng thời nay có phải được sinh ra và nuôi dưỡng từ hồi xửa hồi xưa đó không?’’ (Bài ‘‘Trong như tiếng hạc bay qua’’)
5.
Huỳnh Kim Bửu còn là người khá tinh tế trong lựa chọn chi tiết kể. Ví dụ, kể ‘‘Mùi đồng’’, ông kể đủ các mùi bùn, đất, mùi phân trâu bò, mùi bông lúa chín ngập đồng, mùi hương sen ngát…, lại nữa, mùi chua loét mồ hôi của những bác nông phu, mùi hăng hăng rạ rơm cũ nát, mùi khói đốt đồng, những nền đất ẩm mốc, mùi phân đang hoai, và mùi tóc mẹ, tóc chị thơm dầu xức, thơm bồ kết, hương chanh hương bưởi…, rồi các thứ hương hoa, cây trái bốn mùa…, đặc biệt, thật hóm hỉnh, ông kể cái mùi đám giỗ, nó “thơm phức, nồng nàn, ngào ngạt, lan tỏa từ nhà bếp, lên nhà trên, sang tận các nhà hàng xóm, quyện lâu vào mũi những ông bà hàng xóm láng giềng và gieo vào họ một tâm trạng’’ bâng khuâng chờ đợi; ‘‘Nghe như có đám giỗ gần/ Bụng dạ lần khần, chẳng muốn nấu cơm’’ ca dao. Bởi đó, trong xóm Miễu Tây của tôi, một nhà có đám giỗ là cả xóm đều biết và thường được mời ăn đám giỗ’’. Cái ‘‘mùi đám giỗ’’ là đặc sắc của người kể chuyện làng!
Có cả trong chuyện kể của ông từ cái chợ quê đến những nong hát bội, có những ông Chảng, chàng Lía võ nghệ, những đường quyền, đường gươm hư thực: độc thần kiếm, song thần côn, tam thần đao, tứ thần cung, ngũ thần mã của Nhà Tây Sơn; có xúc cảm bốn mùa, có cái chõng tre, cái võng đu đưa, cái bánh tráng bẻ giòn giòn, chén mắm học trò trường huyện, những thú lặn lội mùa mưa đơm cá, cả thói hư giở trộm dẹp ông hàng xóm mà hồi hộp sung sướng rộn ràng mướt tươi con cá quẫy… Có cả. Một hòn đất, một giọt nước mái tranh, một bếp lửa đêm ba mươi tết. Cũng thấy kia những con trẻ ê a thời cuối Nho học, còn đó chút ngậm ngùi vắng dần các thôn nữ trên đường quê… Huỳnh Kim Bửu vẫn đang kể. Sắp tới rồi sẽ là cọng cỏ nào, tấm áo nào, làn hương nào… không biết, nghe chừng ngay chính người kể cũng không có sắp xếp trước sau gì, chuyện làng mà,  một gợi ý nào đó là chuyện sẽ miên man, chuyện nọ gợi chuyện kia, không dứt.
Có thể nói không ngoa rằng, nếu thực hiện được trọn ý muốn đang định sẵn, những chuyện lan man của Huỳnh Kim Bửu sẽ mang hình vóc một cuốn bách khoa thư về phong hóa một vùng đất. Với cái duyên riêng và đã định hình thành phong cách. Nên dù ông ghi thể loại sách là tản văn, bút ký thì tản văn bút ký này cũng đã riêng, đã khác, theo cái cách của ông và với bạn đọc gần xa, đã nghe quen giọng. Chúc mừng ông và thật nhiều hy vọng từ giản dị và sâu lắng chuyện làng.
  • LHL

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011



Tản văn của Huỳnh Kim Bửu



Tản mạn về cái đồng hồ
“Đi xem đất, về ngước mặt xem trời” (Tục ngữ)



Cái đồng hồ! Hồi thật xa xưa, cái này ở ta không có, còn cách nay chừng 50 -  70 năm thì nó vẫn còn là vật quý hiếm. Tôi còn nhớ, cả trường Tổng hồi tôi theo học, chỉ có thầy Hiệu trưởng (cấp trên thuyên chuyển đến) mới có cái đồng hồ đeo tay. Và trường đã làm việc theo giờ giấc cái đồng hồ của thầy Hiệu trưởng (nhỡ hôm thầy đi vắng thì cả trường chỉ còn nước làm việc theo bóng mặt trời). Sống là làm việc, sinh hoạt theo giờ giấc, tuân thủ giờ giấc. Cho nên, dù không có đồng hồ, người ta vẫn phải có cuộc sống như thế. Nhưng bằng cách nào?

Hình như để “xem” giờ, lỗ tai có vai trò chính. Và cũng bởi thế, giờ còn gọi là tiếng đồng hồ. Người trong các làng quê, ban đêm lắng tai nghe đủ thứ tiếng quen thuộc để biết giờ giấc: Tiếng trống (hay tiếng mõ) cầm canh của ông trương tuần, tiếng vạc kêu, tiếng gà gáy sáng… Nhà Nho chia thì giờ thành Tý, Sửu, Dần, Mẹo… Tuất, Hợi: Một ngày đêm có 12 giờ, “nửa đêm (là) giờ Tý canh ba” (Ca dao), giờ Dậu gà nhảy lên chuồng. Còn nông dân thì khác, họ chia đêm thành  5 canh, ngày ra 6 khắc. Nông dân nuôi con gà trống, cốt để nó gáy báo sáng mà lo thức dậy ra đồng, đi chợ sớm … Người ta còn lắng nghe hồi chuông chiêu mộ, tiếng chiêng thu không để biết lúc chiều về. Chắc Nguyễn Du đã thức nhiều đêm để viết Truyện Kiều, cho nên kết thúc áng thơ tuyệt tác, cụ mới viết: “Mua vui cũng được một vài trống canh”.    

Muốn xem giờ giấc bằng con mắt, bà con phải ngước mặt trông trời. Ban ngày, người ta xem bóng mặt trời và đo thời gian bằng sào (cây sào chống sõng hay sào chận vịt): “Mặt trời lên cao mấy sào rồi nhỉ?”, câu nói vẫn thường nghe ở nông thôn. Người đi đường ngước mặt nhìn thấy ông Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu là biết giữa trưa, lo rảo nhanh chân kẻo say cái nắng gắt. “Tà tà bóng ngả về Tây” là lúc chị em Thúy Kiều quay gót về nhà sau một ngày đi du Xuân, gặp gỡ chàng Kim mà chẳng biết, đó là duyên may hay rủi. Người ta cũng ngước nhìn trời đêm đêm để tìm xem những chòm sao: lúc sao hôm mọc biết là đầu hôm, sông Ngân Hà lên thượng đỉnh trời tròn biết nửa khuya, sao mai, sao cày  mọc là gần sáng… Còn Hằng Nga thì luôn đúng giờ: “20 Tuất rốt, 21 nửa đêm / 22 trăng mọc gà kêu, 23 trăng mọc gà đều gáy tan” (Ca dao). Đám cưới thời xưa thường đi lúc nửa đêm, “lưỡng tộc” nhìn trăng, nhìn sao theo kinh nghiệm, để kịp đưa đón cô dâu về nhà chồng đúng giờ tốt đã chọn.  Người ta cũng cúi mặt xem đất: Khi tròn bóng mặt trời trong chân là giữa trưa, mặt trời gác núi là chiều. Thuở là những cậu học trò Tiểu học, ngày hai buổi đến trường, lũ chúng tôi vẫn xem bóng nắng trên sân để đến trường đúng giờ. Bà nội trợ đi chợ về cũng xem vệt bóng mình in trên đường cái để liệu mà nhanh chân kẻo về trễ, khiến chồng đợi, con trông.

Nếu nói cho hết, người ta còn có kiểu xem giờ bằng những diễn biến tâm sinh lý nơi chính mình nữa: Làm việc từ sáng, nghe mệt, mỏi, bụng đói là biết đến trưa rồi; thức đêm đọc sách, con mắt buồn ngủ, tức đêm đã về khuya. Người nông dân khỏe, ăn ngon, ngủ ngon vẫn nói: “Đêm nào cũng thế, tớ ngủ ngon một giấc là tới khuya, ngủ thêm giấc nữa, thức dậy thấy trời gần sáng”.    

Cứ thế, người nông thôn “đi xem đất về ngước mặt xem trời” (Tục ngữ) mà sinh hoạt, lao động có giờ giấc, năng suất, chất lượng để nuôi dân, cho đất nước trường tồn. Thử hỏi, ở thời đại văn minh ngày nay, người ta có cái đồng hồ chỉnh chu, liệu làm ăn hơn trước được bao nhiêu? Bao cậu thanh niên thời nay bảnh bao, trong người có đủ loại đồng hồ nhưng vẫn ngồi quán cà phê tối ngày!

Chẳng biết cho tới lúc nào thì người ta thôi, không tính thời gian bằng canh, bằng khắc mà tính bằng giờ: Một ngày đêm 24 tiếng? Có phải, từ cái ngày Tây sang, nó sang đây cũng mang theo cái đồng hồ 24 tiếng mỗi ngày? Có thể như vậy, vì ở quê tôi hồi ấy, có ông Xếp ga Diêu Trì người Tây mũi cao mắt xanh và ông đã cho treo nơi mặt tiền nhà ga này cái đồng hồ to tướng, chạy rất đúng giờ mà người quê tôi gọi là “Đồng hồ nhà ga”. Về sau, trước nhà Giây thép (Bây giờ gọi là Bưu Điện) phủ An Nhơn cũng có treo đồng hồ to, sáng luyminơ ban đêm. Hình như, người nông dân quê tôi thấy cái đồng hồ đầu tiên là đồng hồ nhà ga?
 
Xem thế, đủ thấy cái đồng hồ thời xưa là quý hiếm, còn thời nay thì cái này nhiều, thật nhiều. Bạn đang ở nhà tư của mình hay đang ngồi nơi văn phòng cơ quan, đang ở phòng bạn thuê nơi khách sạn…  Ở đâu, bạn cũng ở giữa một không gian đồng hồ: Đồng hồ tường, đồng hồ bàn (báo thức) , đồng hồ đeo tay, đồng hồ điện thoại (của vợ chồng, con cái), đồng hồ vi tính, đồng hồ LAPTOP, đồng hồ trên màn hình TV…

Người ta có thú chơi đồng hồ! Cũng do có cái thú chơi đó mà các nhà sản xuất, các cửa tiệm đánh đúng thị hiếu, tranh nhau cho ra đời và giới thiệu các loại đồng hồ: Đồng hồ Thụy Sĩ thật mỏng (hiệu Wyler, Lugran), đồng hồ Nhật automatic (Seiko), đồng hồ vỏ vàng dây vàng, đồng hồ dây da đeo êm cổ tay, đồng hồ chống vô nước… Còn đồng hồ treo tường thì đủ loại: quả lắc, chạy pin, lên giây, tấu nhạc, đổ chuông, có lịch, có hình phong cảnh… Đồng hồ treo tường thời thượng cách nay 50 năm là đồng hồ hiệu ODO thùng to, tấu đàn, gõ chuông, gắn nhãn hiệu ngựa chạy, chỉ nhà giàu mới sắm nổi. Thời nay, có đồng hồ điện tử là thông dụng, vì có nhiều ưu điểm: giá rẻ, chạy đúng giờ, bền… Học sinh lớp 2 sau bài học xem giờ cô giáo dạy, phần đông các em đều thích thực hành xem giờ và bắt đầu đeo đồng hồ.

Hình như người thời nay, ít ai không có kỷ niệm với cái đồng hồ: Đồng hồ mẹ mua cho, đồng hồ bạn tặng, đồng hồ đi mừng đám tiệc, đồng hồ phần thưởng… Anh Hai tôi vẫn thích kể chuyện: Ông Thanh tra Tiểu học và cái đồng hồ quả quít:
Có một hôm, ông Thanh tra Tiểu học về trường tổng Háo Đức Thượng. Thầy Đốc trường hướng dẫn ông vào các lớp học. Ở lớp Ba sơ học của anh Hai, cả lớp sợ nhưng cũng nhìn lén ông trong bộ Âu phục (khác với các thầy trò đều mặc Quốc phục: quần trắng, áo dài đen, đi guốc mộc), và cũng phát hiện ông có vật gì bỏ túi quần tây, được nối với một đai nịt bằng một sợi dây chuyền kim loại màu trắng bạc. Cứ một chặp, ông lại rút túi vật đó ra xem, rồi lại đút túi, cất. Sau này, nhờ đi học trường Phủ, đầu óc có mở mang thêm, anh tôi mới biết, đó là cái đồng hồ quả quít (vì nó tròn trĩnh và cũng to bằng trái quít anh ăn) cho ông biết giờ giấc để làm việc.

Nhiều người thành đạt đã nói về cái đồng hồ của mình hồi xưa như sau: Bằng tiếng tích tắc, đồng hồ vẫn nhắc nhở, này anh bạn trẻ, anh hãy tranh thủ thời gian để học tập, làm việc cho tương lai, sự nghiệp của mình; nếu không thế, anh sẽ bị một ngày không xa rất ảm đạm, và không khỏi sống đời hối tiếc. Nhiều nhà sản xuất lấy biểu tượng ngựa chạy làm lô - gô cho đồng hồ, có ý nhắn nhủ rằng, thời gian là vốn quý cho sự nghiệp của bạn, nhưng nó đi qua nhanh lắm (như ngựa chạy, bóng câu ngoài cửa sổ), cho nên bạn đừng bao giờ thờ ơ với thời gian.