.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011



Tản văn của Huỳnh Kim Bửu

Thưởng vị trà
Kích thước chữ: Decrease font Enlarge font


Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi (như người cày đồng về nhà, khát nước, “kéo gáo” bên vò nước lã) mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Có hương thơm? Trà lài hay trà sen? Trà ngây hay trà ngọc lan? Trà Lâm Đồng hay trà Bắc Thái?...


Uống trà là cái thú thứ nhất đối với nhiều người: “Một  trà, một rượu, một đàn bà/  Ba cái lăng nhăng nó quấy ta” (Trần Tế Xương).
Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi (như người cày đồng về nhà, khát nước, “kéo gáo” bên vò nước lã) mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Có hương thơm? Trà lài hay trà sen? Trà ngây hay trà ngọc lan? Trà Lâm Đồng hay trà Bắc Thái?...

Chiều hôm trước, Hòa thượng Tịnh Như đã bơi thuyền ra giữa hồ sen trước cổng bam quan chùa Viên Giác, đặt những túi trà Đài Loan nho nhỏ (gói trong giấy quyến) vào các búp sen hàm tiếu, đặng ướp cái hương nhụy của sen qua đêm.
Sáng ngày sau, Hòa thượng lại bơi thuyền ra, thu lại những gói trà ấy và hứng luôn những giọt sương đêm đọng trên lá sen, lá súng để rồi đem cả hoa, cả nước vào chùa quạt lò, đun nước, pha trà và đợi khách mộ đạo về chùa chùng ngồi đối ẩm chén trà “hầu tàn” vừa mới dâng cúng Phật.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đi tìm cái thú thanh cao không kém khi ông đi tìm một “áng hương trà”: “Hương biếc tràn quanh nắp đậy hờ/ Ấm sành nho nhỏ khói lên tơ/ Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm/ Ai biết mình sen rụng xác xơ” (Qua áng hương trà).
Nhà thơ Quách Tấn tiễn bạn ra đi: “Hương trà chưa cạn chén hàn ôn/ Thuyền đã buông theo tiếng sóng dồn/ Ngắm vọi mây thu ùn mặt biển/ Gác chuông thành cổ động hoàng hôn” khiến những người trong cuộc bịn rịn tấc lòng, không muốn chia tay nhau.
Uống chén trà trong sương sớm (Bình minh sổ trảng trà) là cái thú của người dậy sớm để chào đón ngày mới, tận hưởng vẻ đẹp rực rỡ của một buổi bình minh.
Uống trà cũng như uống rượu, ít khi người ta chịu uống một mình (độc ẩm). Mà dẫu có độc ẩm thì cũng tìm bạn nơi chính mình (là hai), với vầng trăng tình tứ nữa (là ba). Trong mỗi cuộc trà, tùy theo số người “đối ẩm” mà có tên gọi khác nhau: “Song ẩm” (hai người, có chén tống, chén quân) “tam, tứ ẩm” hay “quần ẩm” (ba, bốn người…).
Và cũng bởi người ta uống trà “vị nghệ thuật” như thế cho nên mới có đủ thương hiệu trà. Trà Bắc Thái, trà Lai Châu… cho người ưa trà Bắc; trà Lâm Đồng, trà Bảo Lộc… cho dân nghiện trà cao nguyên. Trà lài, trà ngâu hay trà sói, trà ngọc lan hay trà sen…
Mỗi người, mỗi giới ưa chuộng ở trà một hương vị riêng. Lại còn trà của hãng nào nữa? –Xưa, có Kim Tiền, Đài Loan… là trà hảo hạng; nay có Ô Long, Tín Thái, Việt Nam Danh Trà… là trà có tiếng. Đó thật là cả một sự cố công của giới kinh doanh trà.
Giới đệ tử của trà (vì bên Nhật có Trà đạo) đâu chỉ nghiện nước trà mà còn nghiện cả cái thú chơi đồ trà. Tôi ở Quy Nhơn, bạn tôi trong giới đệ tử nhỏ của trà, ở thị trấn Bình Định. Tôi lên chơi nhà bạn thường mỗi năm cũng mươi lần. Mươi lần tôi lên chơi, mươi lần bạn đem ra bộ ấm chén “bóc tem” giới thiệu và pha trà thết tôi để chứng tỏ rằng, mình là dân chơi đồ trà danh bất hư truyền.
Dân buôn đồ cổ và dân chơi đồ trà xưa nay vẫn chưa làm sao thay đổi được câu xếp hạng những bộ đồ trà “độc”: “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần” đã lưu truyền từ xa xưa.
Người bạn thâm giao đã thuyết cho tôi nghe tới trăm lần về cái đặc điểm của ấm Thế Đức gan gà mà gia đình anh đã “thủ đắc” tới đời anh là đời thứ năm.
Anh bảo: “Giống ấm đó khi chùi thì đừng có chùi lòng ấm vì đó là chỗ vị trà lưu cữu; thử cho biết có phải ấm này thứ thật thì hãy cứ úp xuống mặt gương của bàn anh đang ngồi uống trà, nếu thấy bộ ba vòi-miệng- quai ấm mà nằm cắn chỉ tăm tắp trên mặt gương, thì đó là ấm Thế Đức gan gà chính hiệu; ấm trà nóng mới pha tức thì mà đưa tay sờ da ấm, sẽ thấy lạnh tanh như anh đang sờ tay vào vỏ bình thủy; khi đi mua ấm trà hãy coi chừng tay bán hàng phỉnh anh, nó giấu cái nắp ấm mà chỉ bán cái thân ấm, để bữa sau lại đem bán một mình cái nắp ấm, buộc anh mua với giá chém ngọt cái cần cổ của anh”.
Nhà nghiên cứu sưu tầm văn hóa ẩm thực Nguyễn Phúc vẫn khoe bộ đĩa trà mà đĩa và ba chén trà đều sứ men xanh, vẽ tiều phu gánh củi. Chủ- khách, ba người, mỗi người một chén trà, hô một hai ba, cầm trôn chén “bong” như bong vụ, rồi thả chén ra mặt chiếu cho nó xoay tít, xoay tít… Thét một chặp, chén hết “tua” ngã lăn, rồi tự đứng dậy cho ông rót ba chén trà Ô Long, tiếp khách quý.

Theo: Giác Ngộ online 

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011



Thơ Huỳnh Kim Bửu



Những tình đợi cất thành thơ


Có ai thăm chừng lá đỏ
Gió xuân đã thổi hay chưa?
Đò tình còn trôi chưa đỗ
Sông xuân một dải trong mưa.

Có ai thăm giùm hoa nở
Giọt sương có gội chiều qua?
Thương ai cầm xuân đi hỏi
Vu vơ một cõi Ta Bà.

Hỡi tình có thương không nhỉ
Mà em lỡ mất xuân thì
Có tại bóng chiều thủ thỉ
Ngàn dâu còn mãi xanh rì?

Xuân của đất trời thì mới
Xuân em chưa cũ bao giờ
Hỡi những ngày vừa chín tới
Những tình đợi cất thành thơ.

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Bút ký của Huỳnh Kim Bửu


Kiến trúc ở làng
(Tiếng đồn Bình Định tốt nhà – Ca dao)



Kiến trúc ở làng khá phong phú và cũng làm nên đặc điểm của kiến trúc ở nơi này.

Trước hết phải nói về nhà tranh vách đất, vì đó là ngôi nhà của phần đông nông dân.

Nhà tranh vách đất có nền, móng bằng đất đắp, khung nhà bằng tre, mái lợp tranh. Cũng có nhà khá hơn, làm móng đá ong, cột kèo là những thân cây cau, cây xoan đứng thẳng hạ từ trong vườn nhà… Người ta thường gặp những nhà tranh vách đất ba gian hai chái ở trong một mảnh vườn cây trái, giữa một xóm quê. Ngôi nhà có nhiều gian phụ làm buồng, bếp, kho lẫm…được gọi là nhà trên (để phân biệt với những gian kia là nhà dưới). Nhà trên làm nơi thờ phượng là chủ yếu: gian giữa đặt bàn thờ gia tiên, hai gian bên đặt giường nằm (chỉ dành cho đàn ông: ông chủ nhà và những anh con trai; phụ nữ không được phép lên nhà trên). Người ta thường chọn hướng cất nhà là hướng Đông - Nam hoặc Tây -  Nam  và cũng tránh hướng gió độc (gió tây, gió bấc, theo kinh nghiệm dân gian).
Nhiều gia đình đi gánh nước giếng làng, nhưng chẳng phải ít gia đình khơi giếng mà uống. Giếng khơi trong vườn nhà, chồng từ đáy lên mấy bộng đất nung để cho nước trong mát. Cô con gái trong nhà vẫn ngồi thềm giếng, múc nước gội đầu, thả hương bồ kết thơm xa…
Nhà nghiên cứu đồ cổ Vương Hồng Sển đã từng khen vẻ đẹp của nhà tranh và ông cho hay có cái nhà tranh đẹp, đến khiến có một anh công chức (thời Pháp thuộc) gặp rồi mê, ngỏ ý đem nhà ngói đổi… Mà không đổi được. Dân gian không hoàn toàn tin rằng hạnh phúc hôn nhân và gia đình là nhờ giàu có; mà vẫn lưu truyền câu nói: “Nhà tranh, vách đất, gáo nước lã và hai quả tim vàng” ý nói dẫu nghèo mà biết yêu nhau bằng cả trái tim yêu thương thì vẫn có hạnh phúc như thường. Người ta có ý thức phòng tránh gió bão, cho nên cất thấp nhà ở, dẫu biết khi vào nhà, vô ý đụng đầu.

Trong các làng quê Bình Định, giữa những nhà tranh vách đất, mọc lên mấy ngôi nhà lá mái, nhà ngói Tây.
Nhà lá mái là một công trình kiến trúc bề thế và rất đặc trưng Bình Định. Toàn bộ ngôi nhà đặt trên nền móng đá ong và một khung gỗ (danh mộc) với các hàng cột (hàng nhất, hàng nhì, hàng ba) và các cột -  kèo -  xiên -  trính… chịu lực, liên kết với nhau. Có những chủ nhân vì quá yêu nhà lá mái mà phải lặn lội lên rừng, tìm gỗ quý mua đem về cất nhà. Nhà tọa lạc giữa một khuôn viên, trước có sân rộng, tường rào cao, nhà ngõ bước lên tam cấp; sau có vườn cây lúc lỉu quả, khóm tre trúc lả ngọn. Nổi bật trong nhà lá mái lá nếp cổ. Trước nhà có bờ tường, nhà ngõ, hàng cau liên phòng, lê lựu trồng trong sân, hoa hồng tường vi nở nơi giọt tranh… Sau nhà có vườn rộng, ao sâu… Nội thất nhà là một công trình chạm trổ và là một kho chứa đồ cổ. Đà nhà, cột, kèo, xiên, trính… đều được chạm trổ chữ Phước hoặc chữ Thọ (theo lối chữ triện) ở các đầu cây. Cửa bàn khoa được chạm nổi hoặc chạm thủng; có những bộ cửa bàn khoa 4 tấm chạm thủng thành một bộ tứ bình: Mai – Lan – Cúc – Trúc hoặc Long  - Ly – Qui – Phụng. Những đồ phục vụ cho sinh hoạt, như tràng kỷ, rương xe, giường hộp… vừa chạm trổ vừa khảm xà cừ. Hoành phi liễn đối khảm xà cừ các câu chữ đã trở thành thi phú làm rung cảm hồn người và mang ý nghĩa giáo dục về lòng biết ơn Tổ tiên, về đạo lý Thánh hiền… Cái kho chứa đồ cổ trong nhà lá mái, còn phải kể: các đồ đồng (độc lư, chân đèn, hộp thau…) đồ mỏng (người Bình Định gọi đồ sứ Tàu – chén bát, tô, đĩa… là đồ mỏng) để thờ.
Khách quý đến chơi nhà được chủ nhân đón từ nhà ngõ, và buổi khách ra về, cũng tiễn tại nhà ngõ này.

Trước thời Tây sang, đã thấy có nhà xây tường, móng bằng đá ong, lợp mái ngói âm dương. Vật tư kết dính thời đó là vôi vữa, chứ chưa có xi măng. Tới khi Tây sang, người Tây xây công sở (Cơ quan, nhà ga, nhà giây thép, nhà thương, trường học ở tỉnh lỵ và các huyện ly… ) bằng gạch nung và xi măng. Từ đó, trong các làng quê, nhà gạch bắt đầu mọc lên. Có những ngôi nhà gạch to, đẹp với tường vôi trắng, cửa vòm, thềm cao, hè rộng, mái cao (không sợ gì bão to, gió lớn), nền xi măng hoặc nền gạch Bát Tràng. Lúc đầu, nông dân vẫn nói “tiếng Tây” về ngôi nhà này: Cái pla – phông (plafond: trần nhà), ô – vân (auvent: hiên nhà), bộ sa – lông (salon: bộ bàn ghế trong phòng khách), đi -  văng (divan: ván nằm)…Như một thời, người ta vẫn nói tiếng Tây về bóng đá: Nu (Nous: chúng tôi), manh (main: chạm tay), a - ri - e (arriere: hậu vệ), goal… Phối cảnh của nhà gạch thường là vườn xoài, mận sai trái, hàng cau vươn cao phất phơ khóm lá và một vòm trời xanh. Nhà sân rộng, lối đi êm, đến cuối tuần thì thường đón khách.
Dân miền Trung thường truyền khẩu câu: “Tiếng đồn Bình Định tốt nhà / Phú Yên tốt lúa, Khánh Hòa tốt trâu”. Có lẽ câu ca dao đã nói về những ngôi nhà lá mái, nhà ngói ở Bình Định đó.

Nhà công ở trong làng là các đình chùa, miếu mạo, chợ quê…Và cũng chắc, có ngôi trường làng nữa.
Kiến trúc đình, chùa, miếu mạo là những công trình kiến trúc cổ mang đậm nét tâm linh, tín ngưỡng lâu đời của người Việt.
Đình lập nên để thờ Thành hoàng. Mái đình lợp ngói âm dương, nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt (hoặc lưỡng long tranh châu), mặt tiền là một hàng cửa cuốn (hay cửa võng), cờ vuông trên cột cờ … Khách vào đình phải qua cổng tam quan, hàng trụ biểu, dừng chân trước bình phong rồi đi qua khoảng sân rộng mà vào đình…Thường trước đình có ao sen soi bóng cửa tam quan. Vẫn bóng dáng thầy lý, cụ tiên chỉ khăn áo chỉnh tề trước thềm, trong sân.
Kiến trúc Miễu gần giống như đình, nhưng nhỏ hơn nhiều. Xung quanh miễu có bờ thành (cắm miểng chai), cổng vào có nhà ngõ, trụ biểu, bình phong… Mặt tiền miễu thường xây chấn thủy, sẵn đó đắp tên miễu bằng chữ Hán (cũng có miễu đề chữ Quốc ngữ). Nếu đình là nhà chung của cả làng thì miếu là nhà chung của xóm để thờ các bộ hạ của các vị thần linh. Hầu hết các làng đều có miễu Thanh minh, nhiều làng có miễu Hà Bá, miễu Mục đồng ở bên bến sông, ở giữa đồng, vẫn nghi ngút khói hương.
Đến chùa. Thường thì đình xây dựng ở trung tâm làng, miễu ở giữa xóm. Nhưng chùa thì lập ở nơi phong cảnh đẹp, chỗ thanh lam u tịch. Nhiều chùa lập ở lưng đồi, như chùa Linh Phong ở Phù Cát, chùa Long Giáng (trong tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng). Phải chăng vì thế mà dân gian có từ “lên chùa”: “Lên chùa gặp Phật muốn tu / Về nhà thấy mẹ, công phu chuyên cần” (Ca dao). Kiến trúc chùa với những góc mái cong, nóc cao đắp hình chữ Vạn hoặc biểu tượng Chuyển pháp luân. Chùa có nhiều gian: Chánh điện, nhà Tổ, nhà khách, nhà chúng, nhà trù. Hai bên chánh điện có lầu chuông, lầu trống, sân chùa thường trồng cây đại, cây ngọc lan, góc vườn có giếng chùa thường ngọt trong (cho người dưới xóm lên gánh nước về pha trà – Nguyễn Tuân có tả trong sách Vang Bóng Một Thời)… Khách thập phương về chùa đông khi chùa có lễ Phật đản Rằm tháng Tư, giỗ Tổ, lễ Vu lan báo hiếu Rằm tháng bảy. Ngày thường, cảnh chùa vắng vẻ, nhiều bữa có người bổn đạo phát thiện tâm đến với người nghèo khó, bất hạnh, đến thỉnh sư Trụ trì cùng đi với mình…
Chợ quê lều quán đơn sơ: Mấy túp lều chợ bằng tranh tre. Cho nên, chợ thường nép bên cây cổ thụ: “Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ” (Thơ Đoàn Văn Cừ).  Chỉ có làng giàu (như làng Háo Lễ, thuộc xã Phước Hưng – Tuy Phước) mới xây ngôi chợ với trụ gạch, mái ngói. Chợ thường lập bên bến sông hoặc bên bến xe ngựa, cho thuận tiện việc đi lại. Chợ quê bán buôn nông thổ sản, họp mỗi tháng 6 phiên. Ngày thơ ở làng, tôi thích đi chợ Tết để xem cảnh chợ đông người và nhiều hàng hóa, thích nhất, được ngắm những tấm bức viết đại tự, treo ở dãy cột lều bày bán hàng mã.
Trường làng mái ngói, có từ 2 – 3 phòng học, thường nấp dưới bóng cây bàng cổ thụ (bởi thế, học trò trường làng thường có thú chơi nhặt quả bàng). Địa điểm xây trường thường ở một góc sân đình, cũng có nhiều làng mượn nhà hương hội (nhà họp của làng) để mở trường. Tôi có cái duyên cũng ngộ. Cả thời học Tiểu học, rồi Trung học (1945 – 1954) tôi đều ngồi học cùng chúng bạn trong các đình, miễu: Học Tiểu học (từ lớp Năm đến lớp Ba) ở trường Cơ bản Háo Trung trong Miễu Sở Ba của làng Háo Đức (Nhơn An – An Nhơn) học Tiểu học (2 năm Nhì, Nhất) ở trường Tiểu học Nhơn An trong đình làng Tân Dân (An Nhơn), học Trung học trong đình làng Hòa Bình (Nhơn Phong – An Nhơn). Cho đến khi mái đầu đã bạc, mỗi lần nhắc đến trường làng, nhiều người không khỏi nhớ mẹ mình xưa: “Tiếng trống mỗi lần vang dưới xóm / Mẹ tôi hay bảo, cố đi nhanh” (Thơ Khuyết danh).

Kiến trúc ở nông thôn ngày nay không còn giữ được mấy nét xưa: Cuộc tiến hóa đã không còn chỗ cho nhà tranh vách đất; nhà lá mái còn ít lắm mà cũng khó bảo tồn; nhà ngói mọc lên thay nhà tranh; nhà mái bằng, nhà hộp hiện đại mọc lên thay nhà ngói Tây trước kia… Ông nông dân ngày nay lái máy cày, lái xe nông nghiệp, cô thôn nữ ngày nay đứng trước sân nhà mái bằng, nói chuyện điện thoại di động (chứ không cầm liềm cắt từ nhà tranh đi ra, trước khi khép cánh cửa liếp, như hồi xưa)…Người ta đang muốn phục hồi cái cổng làng xây gạch cù cũ kỹ có cái cộ trâu chở rơm chui qua, nhưng đã không thành. Vì đã mọc lên cái cổng làng bê – tông, sơn nhiều màu và chiếc xe tải nặng đi qua.