.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011



Tản văn của Huỳnh Kim Bửu


 Chùa làng

Dân gian ta có câu:
“Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.
Hiếm có làng nào vắng bóng một ngôi chùa. Chùa làng tôi có tên hiệu là chùa Phước Đức, quanh năm thiện nam tín nữ đi về rất đông.
Chùa Phước Đức ở trên một đồi cao, xa khu dân cư đông đúc. Chùa xây gạch lợp ngói, trước chùa có hồ sen, có cổng tam quan, kế tiếp là sân chùa và các ngôi nhà tổ, nhà khách, nhà tăng, nhà trù…Vườn chùa có mấy ngôi tháp cổ chôn cất hài cốt của các đời Tổ. Từ xóm Nhân Từ nhìn lên, chùa giống như một bông hoa sen tinh khiết nở giữa đất trời cao lộng và trong veo; con đường đất dẫn lên chùa giống như con rắn khổng lồ dài đến mấy trăm thước đang trườn mình bò lên chùa mà cái đầu rắn thì đã ở cổng tam quan, còn cái đuôi ở xóm Nhân Từ. Nghe nói vị sơ tổ của chùa là một vị cao tăng người Hoa, đến tu ở chùa Thánh Đức cách không xa, rồi lên đây lập chùa, vì thấy cảnh ở đây đẹp.
          Bà tôi tuổi già sức yếu vẫn siêng năng về chùa. Tôi nhớ lắm hình bóng bà ngồi xếp bằng trong chánh điện, tay lần tràng hạt, miệng lẩm nhẩm niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Những lúc ấy nhìn bà, tôi thương làm sao tóc bà bạc trắng, cái lưng bà còng và niềm tin cùng sự thành kính của bà trước Đức Như Lai. Người cao tuổi trong làng nói với con cháu: “Trẻ vui nhà già vui chùa”, nhưng thực tế, mọi thế hệ đều muốn lấy việc tìm về chùa làm niềm an lạc nơi cõi lòng. Người trung niên về chùa tìm sự thư giãn, quẳng đi những gánh lo âu của bao việc đời thường. Lũ trẻ con chúng tôi thích về chùa để được gần Bụt như trong truyện cổ tích, được tung tăng chạy nhảy trong vườn chùa râm mát những bóng cây cổ thụ. Mới đầu tháng tư Am lịch, mọi người đã mong cho tới ngày trăng tròn có lễ Phật Đản, mới đầu tháng Bảy, đã mong tới Rằm Vu Lan báo hiếu và xá tội vong nhân. Thế nào trong những ngày ấy, trẻ nhỏ cũng được mặc áo lam theo người lớn về chùa lễ Phật, xem lễ, xem múa lục cúng, phóng sanh đăng… Tôi thấy người làng tôi, ai ai cũng thích “về chùa”, “lên chùa”. Nhiều người nói, nhờ lên chùa mà lòng thêm thương mẹ già, biết thêm về đạo hiếu, đạo lớn nhất trong giáo lý Phật giáo:
 “Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền” (Ca dao);
 biết thêm về đạo cứu khổ cứu nạn chúng sinh:
 “Dẫu xây chín bậc Phù đồ
 Không bằng làm phước giúp cho một người” (Ca dao).   
           Nhờ lên chùa mà bao người thêm yêu cảnh chùa:
”Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh” (Chu Mạnh Trinh).
           Bà tôi, cũng như những người cao tuổi trong làng, bảo con cháu “khép” sẵn quan tài cho mình, gọi đó là cái “thọ đường” để “dưỡng già”. Những cái “thọ đường” đó thường được gởi ở chùa, đến khi có việc “hậu sự” mới được lấy về. Ông bà mình thật đã xem cái chết là một cuộc “sinh ký tử quy”, là điều chấp nhận. Có lẽ nhờ vậy mà họ sống vui tươi và coi cái chết cũng nhẹ nhàng hơn.
         Ở trong làng An Định xưa, quý thầy ở chùa là những người có học vấn nhất, cho nên ai có việc gì cũng về chùa thưa với thầy. Ông Hương bộ Cảnh làm ăn khá lên,  định làm một việc “bách niên” là cất ngôi nhà cặp ba gian hai chái, một hôm về chùa thưa thầy chỉ vẽ, bảo ban cho. Ông Bầu Đước về chùa thưa thầy “cho chữ” để về làm một tấm liễn thêu đi mừng thằng cháu họ “thập niên đăng hỏa”, vừa mới thi đỗ ở trường thi hương Bình Định. Bà Hai Hành có thằng con trai hư, sa đà nát ruợu, cha mẹ dạy không được, nay đến nhờ thầy dạy bảo nó. Anh Hai An nghèo lắm, ráng cất cái nhà tranh vách đất, giữa chừng thiếu chục cây tre, liền chạy về chùa. Nhà ai có ngày cúng giỗ, về chùa xin mấy bình hoa điệp, hoa cúc vạn thọ đem về cắm trên bàn thờ gia tiên (Hồi xưa, chợ Bình Định, chợ Đập Đá chưa bán hoa như bây giờ). Từ việc lớn đến việc nhỏ, người ta đều cần tới chùa. Thậm chí, những nhà hàng xóm láng giềng của chùa, tới bữa ăn, thiếu chén tương ngọt, miếng dưa cải chua, trái ớt cay chín đỏ… cũng vội vượt trổ rào băng sang chùa. Không ai ngại nhà chùa đóng cửa hay chú tiễu chùa có hôm thiếu lòng hoan hỷ. 
       Dân trong làng thức ngủ, đi làm đồng, đi chợ gần chợ xa, trẻ nhỏ chúng tôi đi học… đều làm theo tiếng chuông trống kinh hôm, kinh mai từ chùa vọng ra. Người đi làm ăn xa về, từ xa nhìn thấy nóc chùa, cổng tam quan chùa quen thuộc lòng đã nôn nao. Nhìn thấy chùa là biết rằng, chốc nữa đây mình sẽ tới nhà và cái cảnh “Thầy mẹ đợi em trông” (Xuân Tâm) như đang rõ dần trước mắt, níu chân mình chững lại.
       Những hôm chùa có ngày giỗ Tổ, người trong làng, chẳng cần bảo ban nhau mà ai cũng nhớ ngày. Vật phẩm thường được mang đến chùa trước ngày giỗ. Họ có gì cúng nấy, thường là gạo, nếp, rau quả, khuôn đậu phụ, chai dầu phụng… Đến ngày, ai cũng về chùa từ sớm để chung lo công việc nấu nướng, dâng cúng, bày bàn bày cỗ... Cúng xong, dường như với tâm thế người chủ nhà, sau khi dọn khách, họ mới cùng nhau ăn bữa cơm chay thanh đạm mà đầy tình đồng đạo, tình làng nghĩa xóm dưới mái chùa làng. Không ai lấy việc cúng dường nhiều hay ít thành chuyện để nói, mà nói với nhau về sự thành tâm, về những bằng chứng của việc “ở hiền gặp lành”, về những giáo lý của Phật giáo thể hiện sống động trong đời sống hàng ngày ở gia đình họ. Sư trụ trì, qúy thầy vẫn xuống làng tụng kinh cầu an hay cầu siêu cho bất kỳ gia đình nào hữu sự có tâm nguyện. Và người dân quê có vẻ như thực sự yên tâm nhờ các khóa lễ đó, vì họ tin rằng mình đã được cầu nguyện, được tế độ bằng lòng từ bi vô lượng của Đấng “Đại hùng lực”. Mỗi khi làng đến dịp “Xuân kỳ Thu tế”, hương chức của làng về chùa cung thỉnh sư Trụ trì và quý thầy tới đình làng tụng kinh “Cầu quốc thái dân an” và dự tế lễ. Gặp năm hạn hán, sợ ruộng đồng thất bát, dân làng có nguyện vọng cầu mưa thì nhà chùa thuận ý làm lễ tắm Phật, cầu “Phong điều vũ thuận”. Gặp năm thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa, thiếu đói, chùa kêu gọi lạc quyên, cứu trợ người bị nạn; lễ Vu Lan Rằm tháng Bảy hằng năm, chùa  có lễ chẩn bần. Những năm chiến tranh, ở đâu cũng sợ bom rơi đạn lạc, người ta kéo nhau về chùa ẩn núp. Nhưng chiến tranh mỗi ngày mỗi ác liệt, bom đạn và lửa chiến tranh không chừa đâu. Một ngày kia, làng cháy, nhà dân, nhà Phật tử cháy, chùa cũng không còn, người dân phải chạy tứ tản. Nhưng tới khi ngóng chừng bom đạn đã dứt, người ta lại lục tục trở về; ngồi trên thềm đổ nát, nhiều người cảm thấy nỗi xót xa, hụt hẩng, trống trải, vì nỗi không nhà, không chùa, vắng bóng quý thầy, vắng bóng ngôi chùa làng ngày nào vô cùng thân thuộc… Người ta còn nhớ, hồi 9 năm kháng chiến, nhà chùa phải “tăng cường” thực hiện “Dĩ nông vi thiền” để có lương thực “tự cấp tự túc”.
          Hồi xưa, phần lớn các chùa là những mái tranh vách đất; ta thường gặp những ngôi chùa nóc cao chót vót, đứng trong sân chùa nhìn lên phải trật ót mới thấy được nóc chùa. Các bà, các cô gái gói bánh ít lá gai bằng lá chuối, bẻ cái lá cho ra cái chóp cao, kiểu gói bánh đó người quê tôi gọi là gói bánh ít nóc chùa, đẹp hơn các kiểu khác. Những người thành thị có dịp đi về đồng quê, thường ghé lại thăm một cảnh chùa để tìm ở đó sự thanh tĩnh. Từ dáng vẻ bề ngoài kiến trúc của chùa đến sự thờ phượng bên trong với những pho tượng Phật, tượng La Hán, hoành phi liễn đối đều có  sức hấp dẫn du khách, nhất là những người có tấm lòng mộ đạo và hoài niệm những gì của thời xưa. Rồi nữa, một bữa cơm chay thanh đạm, một bữa trà mạn sen hương ngát do sư trụ trì mời, cũng đủ làm cho khách khó quên.