.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011



Thơ Huỳnh Kim Bửu



Con còn ngọn gió đam mê

Cuối năm con về chạp mả
Trên cao cha mẹ yên nằm
Lòng con hóa thành nhang thắp
Hương đồng theo gió lên thăm.

Cuối năm con về chạp mả
Thưa cha, thưa mẹ, thưa đồng:
Mồ hôi xưa thành hạt lúa
Cho con giờ bớt long đong.

Cuối năm con về chạp mả
Cúc quỳ nở rực gò cao
Những con chim trời đậu xuống
Một vùng xanh ngát ca dao.

Con cầu mẹ cha siêu thoát
Hồn người nhập với hồn quê
Điệu hò - Đồng trăng - Nồm ngọt…
Con còn ngọn gió đam mê.





Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2011

Elena Pucillo Truong ( Italia)
Nguyên tác : Sempre mano nella mano
( Bản dịch của Trương Văn Dân)

Tiến sĩ ngữ văn Elena Pucillo Truong là một cô dâu Việt quốc tịch Ý. Vì cây dây leo, có thời chị đã theo chồng sang TPHCM dạy tiếng Ý tại nhạc viện TPHCM. Chồng chị là dược sĩ Trương Văn Dân, dịch giả văn học Ý sang tiếng Việt. Tự nhận mình là “người yêu Việt Nam” ( L’amoureuse du Viet Nam) – đúng vậy, không yêu sao lấy chồng Việt lại cả gan làm dâu trưởng nữa?- chị và chồng quyết định sống đời hưu trí ở TPHCM để phụng dưỡng mẹ già và viết văn. Từng cộng tác với một số tờ báo văn học Ý, Elena còn viết truyện ngắn nữa. Truyện Bàn Tay Trong Một Bàn Tay vừa viết ở Sài Gòn của chị do anh Dân dịch sang tiếng Việt, là tiếng nấc cho kiếp người, Ý hay VN thì cũng thế. Một tiếng nấc bất khả kháng nhưng không buồn mà nồng ấm, không thảm mà nhen nhóm hy vọng, dù mơ ước da diết nhất của hai nhân vật yêu nhau đến phút cuối đời chỉ là được chết bên nhau. Truyện rất ngắn, chỉ là vài nhát cắt, nhưng có bề dày và sức nặng của hai cuộc đời biết sống, đáng sống, ai bảo truyện ngắn là ngắn?
Nguyễn Quang Thân  
Lớp trẻ, tuổi ba mươi, bốn mươi…lúc nào cũng vội vàng, hấp tấp, đi và đến trên các phương tiện tân thời, xe hơi, bus, taxi…họ chìm giữa tiếng ồn ào của cuộc sống bon chen đô thị, giữa những cao ốc nguy nga, hàng dãy bảng hiệu với ánh đèn chiếu sáng, biểu tượng của một thế giới hiện đại và lý tưởng đang phát triển, mang vẻ ngoài đẹp đẽ và trẻ trung…
Có hai người già lạc lõng, rải bước đến chiếc băng gỗ quen thuộc đặt ở góc công viên. Tay trong tay, nụ cười như in trên hai khuôn mặt đã có nhiều nếp nhăn theo năm tháng. Ông lão nắm tay bà, cẩn trọng đỡ người bạn đời của mình, nhẹ nhàng giúp bà ngồi xuống một cách thoải mái. Mỗi cử chỉ của ông đều lịch sự, chậm rãi và cẩn thận, cùng những lời yêu thương ngọt ngào, như ông đang che chở và ve vuốt một chú chim non.
Ngày nào cũng thế… tôi chẳng biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng có lẽ từ lâu lắm. Mỗi ngày mỗi khác và nhìn qua cũng dễ nhận ra tình cảm giữa hai người vẫn thiết tha, mạnh mẽ. Nó tương phản hoàn toàn với thế giới ồn ào xung quanh như một nghịch lý.
Cái vũ trụ thu hẹp của họ, có những vụn bánh cho vài chú chim sẻ, có những cái vuốt ve cô mèo con bị lạc hay tiếng cười rạng rỡ của một em bé đang tập đi đang ngã vào vòng tay người mẹ nào đó. Hai người luôn mang theo chiếc dù, để che nắng hay phòng ngừa sự chòng ghẹo trái nết từ những cụm mây. Riêng bà thì không bao giờ quên chiếc khăn quàng khổ rộng, sau khi ngồi vững, bà liền âu yếm quấn quanh cổ ông, những cơn gió lạnh đang thổi về.
Tôi tưởng đó là một bức tranh đang đặt trước mắt mình; cảnh thực đó đang nằm ngoài thế giới này. Chẳng biết gì về họ nhưng lâu nay tôi không thể làm gì khác là nhìn ngắm và quan sát họ cho đến khi, sau chừng một giờ, bằng những cử động ban đầu yếu ớt, về sau mạnh mẽ hơn, họ chống tay đứng dậy rồi tay nắm tay bước đi cho đến lúc mất hút giữa dòng người vô cảm.
Rồi sau đó thì sao? Họ sẽ làm gì quãng thời gian còn lại trong ngày? Tôi tưởng tượng  mình đang tò mò theo dõi, bị cuốn hút bởi thứ hào quang hạnh phúc bao quanh họ. Một cuộc đời đơn giản. Chỉ có những cử chỉ quen thuộc nhưng ngọt ngào và trìu mến dành cho người thân. Dĩ nhiên tôi khó mà tưởng tượng ra họ thường có những cơn ác mộng hoặc trong lòng họ đang chất ngất bao điều ưu tư. Đương nhiên, hằng ngày họ có thể vẫn lo lắng và đau khổ, có thể một nỗi đau khủng khiếp sẽ cướp mất hơi thở tối cần cho cuộc sống của người già.
*
Trong bóng tối buổi chiều tàn, bà vợ mắt nhắm nghiền, nằm bất động trên chiếc giường đôi. Hai bàn tay bà đặt trên ngực, những ngón tay nắm chặt chuỗi tràng hạt. Trên chiếc ghế đẩu đặt cạnh giường, ông chồng ngồi gục đầu, kiệt sức sau một cơn khóc tuyệt vọng. Ông liên tục lau mặt bằng chiếc khăn giấy đã ướt rã nước mắt. Rồi, bất thình lình, trong tay ông loé lên ánh thép lạnh lẽo của một khẩu súng. Ông đăm đăm nhìn họng súng, những giọt nước mắt vẫn tiếp tục rơi, làm ướt nòng súng lạnh giá. Ông thì thầm vài lời gì đó, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Chỉ trong tích tắc.
Bàn tay rớt xuống! Chẳng có tiếng nổ nào xảy ra.
Hình như trong phút chót sự can đảm đã biến mất…
Cuối cùng ông dợm đứng lên, lấy lại tự chủ, rồi đặt khẩu súng trong ngăn kéo chiếc bàn đêm đầu giường.
*
Bây giờ tới phiên ông.
Ông nằm bất động trên chiếc giường đôi, mắt nhắm nghiền và cũng với chuỗi tràng hạt trên tay. Bà vợ, thận trọng và run rẩy đặt một bàn tay lên trên quyển sách nằm trên ngực chồng. Đó là quyển sách mà ông đã viết và nó sẽ theo ông làm bạn trong thế giới bên kia. Một vài giọt nước mắt ứa ra, rớt xuống trang bìa và làm ướt những ngón tay khẳng khiu, gầy yếu… Rồi bà lão như kiệt sức, ngã gục xuống chiếc ghế đặt cạnh giường. Những ngón tay bà cố gượng vuốt ve, lướt nhẹ lên thân thể thân thương. Bà vuốt đôi mắt, vành môi, khi vuốt đến ngực, bà ngập ngừng dừng lại, như muốn vuốt ve cả trái tim ông… Cuối cùng bà áp tay mình lên bàn tay ông, bàn tay đã từng nâng đỡ và che chở bà suốt một cuộc đời. Nước mắt bà vẫn tiếp tục lăn xuống nhưng bà chẳng có chiếc khăn nào để ngăn chúng lại. Sau những tiếng rên rỉ, bà thì thầm bên tai ông những lời ngọt ngào như đã làm thế trong suốt một đời. Rồi gượng đứng lên, bà áp môi mình lên môi ông, thêm một lần nữa, nụ hôn cuối cùng.
Run run, bà với tay lấy khẩu súng đặt trên chiếc bàn đêm. Một tay nắm chặt tay chồng, còn tay kia, rất tự tin, bà đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Cũng chỉ một tích tắc. Rồi bà ngã xuống trên xác chồng, muốn ôm lấy ông một lần cuối.
Cứ thế, từ hai tháng nay mỗi buổi tối cảnh đó luôn được lập lại như đang diễn trong rạp hát.
Mọi chuyện bắt đầu từ sau hôm đi khám bác sĩ. Trước đó bà thường thấy mệt, nhiều lúc thở rất khó khăn, như bị ngạt, như có một khối đá đè lên lồng ngực trong những chuyến cùng chồng đi dạo. Tay trong tay, trong nước mắt, họ lắng nghe phán quyết của thầy thuốc.
“Tôi rất lấy làm tiếc nhưng trái tim của bà nhà rất yếu…giải phẩu là điều không thể thực hiện nữa… Rất tiếc là tôi không biết phải làm gì để có thể giúp bà, nguy cấp lắm rồi, bà yếu quá…”. Trả lời câu hỏi thầm lặng từ đôi mắt đau đớn và khẩn cầu của họ, ông bác sĩ ngập ngừng nhưng xúc động thành thật:
“Rất tiếc…điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào….”
Sau đó thì hai người già vẫn tiếp tục sống như đã từng sống, nhưng ý nghĩ là bà sẽ đột ngột ra đi, bỏ ông lại một mình vẫn ám ảnh ông mỗi ngày. Bà, người chưa bao giờ rời xa, chưa bao giờ phản bội ông.
Bởi, suốt một đời họ đã luôn sống bên nhau. Trong một thoáng bà hồi tưởng thời hai người còn trẻ, những cử chỉ ngập ngừng và vụng về trong mối tình đầu, trái tim bà chỉ đập khi chờ đợi ông, chỉ vì ông, người đàn ông duy nhất có thể lấp đầy cái khoảng trống trong tâm hồn bà; cũng như chỉ cái nhìn nhân ái của ông mới có thể xoa dịu đi nỗi đau hay mang lại cho bà niềm hạnh phúc. Cứ thế, họ đã sát cánh bên nhau đi qua cuộc đời này. Rồi họ cùng nhau nổi tiếng với các nhà hát kịch trên thế giới. Trên tường nhà họ hiện vẫn còn treo đầy các biểu ngữ giới thiệu các vở kịch Shakespeare, Mann, Eliot, Racine, Molière, Pinter…. có tấm in khuôn mặt, miệng mỉm cười của họ, có tấm chụp họ đang mặc đồ diễn trên sân khấu, đứng giữa những bạn diễn thân thiết mà đến nay tên tuổi vẫn còn sáng chói. Hình như hào quang hạnh phúc đã bao quanh họ từng ngày. Và họ luôn ở bên nhau.
Có lẽ trong cuộc sống hạnh phúc và bình an đó, chỉ có một nỗi đau trong trái tim bà, đó là họ không thể có một đứa con… điều duy nhất của riêng họ, chỉ của họ mà thôi. Nhưng mỗi lần bà vật vã, chỉ cần những lời ngọt ngào của chồng “ Em yêu ơi, xin em đừng tuyệt vọng, không có con chúng ta sẽ yêu nhau nhiều hơn…” là có thể làm dịu đớn đau, xua nó đi, dù chưa hoàn toàn xoá mất.
Rồi cuộc sống đổi thay. Thăng trầm. Chìm nổi. Có lần họ cũng rơi vào cảnh nghèo túng vì từ chối các vai diễn không phù hợp hay không chịu ký hợp đồng với những công ty ca kịch không hoạt động vì nghệ thuật… và cuối cùng, với tuổi tác, họ bình thản từ giã ánh đèn sân khấu, chấp nhận cuộc sống giản đơn, bùi ngùi nhìn lại những kỷ niệm sáng ngời trong quá khứ. Nhưng họ luôn ở bên nhau, luôn luôn hạnh phúc vì người này chỉ sống cho người kia. Và ngược lại.
*
Là những diễn viên tài hoa nên mỗi buổi tối họ đều tự chuẩn bị vai diễn của mình, cố thể hiện thật xuất sắc vai được giao cho họ trong kịch bản cuối cùng.
“ Cái chết. Sự chia lìa sẽ bất ngờ là điều không thể tránh khỏi. Nhưng người nào đi trước sẽ không phải hứng chịu nỗi cô đơn ở thế giới bên kia”.
Ông thường đi lập lại rất nhiều lần:“ Ước muốn lớn nhất là chúng ta có thể chết cùng một lúc, nhưng dễ gì Chúa ban cho ta ân sủng này!”
*
Nhưng, ông đã lầm…
Vài tháng trôi qua. Và chỉ có vài hàng trên một tờ báo.
Trong lúc ngủ trái tim mệt mỏi của bà đã vĩnh viễn ngừng đập. Và ông, bất thình lình thức giấc, tin là còn có thể cứu bà, ông lao tới chụp ống điện thoại để gọi xe cấp cứu nhưng không kịp nữa. Trái tim của ông cũng ngừng đập vì đau đớn, nó chỉ cho ông một tích tắc để đưa cánh tay nắm lấy tay bà.
Đúng là sự việc chỉ xảy ra trong tích tắc.
Sai Gon tháng 8/2011
Elena Pucillo Truong

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011




Tản văn của Huỳnh Kim Bửu



Tản mạn văn hóa đọc
“Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”




Văn hóa đọc đang là câu chuyện thời sự được nhiều người quan tâm, có không ít người đã liên hệ chuyện đọc sách của các cụ thời xưa với cái văn hóa đọc thời nay để biết xưa sao, nay thế nào mà buồn vui mà trăn trở cùng người.

Ở quê tôi hồi xưa, không ít bà nội trợ mỗi lần đi chợ mua sắm, thường không quên ghé lại hàng cườm, chọn mua vài cuốn sách bỏ trong rổ đi chợ đem về. Khi mua sách, các bà không khỏi thầm bảo: “Bắt con cháu đọc nghe chơi”. Tại sao, các bà không tự đọc sách mà bắt con cháu đọc cho nghe? – Đó là do họ sống trong thời dân ta tới hơn 90% dân số bị nạn mù chữ, mười bà mua sách kia, tới hơn 9 bà không hề biết đọc.
Những sách các bà (cũng có khi các ông) đi chợ mua về, thường là các tiểu thuyết Trung Quốc (Tam quốc chí, Thủy hử, Thuyết Đường, Tây du ký…) viết theo lối chương hồi, rồi  truyện thơ Việt Nam (Lục Vân Tiên, Kim – Vân - Kiều truyện…), truyện dân gian Việt Nam diễn bằng văn vần (Thoại Khanh – Châu Tuấn, Chàng Nhái – Kiểng Tiên, Mục Kiền Liên…). Còn phải kể thêm, họ cũng thích đọc những tiểu thuyết Việt Nam viết những chuyện diễm tình mà duyên nợ éo le, không thành, khiến ai đọc cũng động mối thương tâm, như: Giọt máu chung tình (tác giả Tân Vân Tử), Tố Tâm (Song An Hoàng Ngọc Phách) Bên dòng sông Trẹm (Dương Hà)… Những sách trên đều do Nhà Tín Đức Thư Xã, trong Chợ Lớn – Sài Gòn in, theo công nghệ hồi đó, không đẹp, bán với giá vài hào một tập mỏng. Còn những cuốn sách giáo khoa như Việt Nam giáo khoa thư, do nhóm ông Trần Trọng Kim biên soạn, Đại Nam quốc sử diễn ca của ông Phạm Đình Toái thì con cháu học tới đâu, ông bà, cha mẹ (nghe) theo tới đó, lấy làm thích thú và cũng mau thuộc bài. 
Nhờ đọc sách theo kiểu đó mà dân ta (có tới hơn 90 % dân số không được đến trường -  như đã nói ở trên) có kiến thức, vốn liếng hiểu biết, đào luyện được tâm hồn, bồi dưỡng nên tình cảm. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ dân gian là túi khôn muôn đời của họ. Sách lịch sử, sách văn học làm cho họ biết sử Tàu, sử ta, yêu thêm cuộc sống, biết những giá trị Chân – Thiện – Mỹ ở đời mà theo đuổi. Thế là trong họ, không thể thiếu cuốn sách. Hồi xưa, vào trong làng, khách thường nghe tiếng đọc sách. Người ta bảo ban nhau, nhà không có tiếng đọc sách là nhà tầm thường. Nhà có con cái đi học, cha mẹ vẫn nhắc nhở “đèn sách”, cuốn sách vẫn đêm đêm mở trước ngọn đèn dầu nửa tỏ nửa mờ, cho nên mở đầu Lục Vân Tiên, cụ Nguyễn Đình Chiểu mới viết: “Trước đèn xem truyện Tây Minh”. Người ta tin ở sách đến nỗi trò chuyện với nhau, cũng đòi “nói có sách, mách có chứng”, ghét thói ăn nói “vô sư vô sách”, khen người chăm đọc sách:“Chu Mãi Thần vai gánh củi, miệng hằng đọc sách”. Thật là tuyệt vời, khi người ta còn để cho trái tim rung cảm trước vẻ đẹp liên quan với sách: “Sáng trăng trải chiếu hai hàng / Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ” (Ca dao).Và cũng thật tuyệt vời, khi ở trong các làng quê, ta gặp những cụ già ngồi đọc thuộc lòng từ đầu đến cuối Lục Vân Tiên, Kim – Vân - Kiều truyện (tên sách các cụ thường gọi thay cho tên Truyện Kiều)… Thử hỏi cử nhân, tiến sĩ giấy thời nay, ai chịu nổi?

Trên đây, nói chuyện người bình dân với sách. Còn sĩ tử, nhà Nho đối với sách như thế nào? Các cụ nhà Nho bảo “Độc thư cao” (đọc sách là thú thanh cao, cái thú của người thanh tao, cao nhã ) hô hào “tích thư” (chứa sách), chăm chú, siêng năng đọc sách để tìm trong sách vànglúa, tìm trong sách người con gái nhan sắc ngọc ngà (Thư trung hữu kim túc, thư trung hữu nữ nhan như ngọc). Nối tiếp giới nhà Nho cựu học là giới trí thức tân học. Giới này có nhiều người cho thấy rõ sự thành đạt, nổi tiếng là nhờ tự học, nhờ đọc sách, chứ không phải nhờ bằng cấp, khoa bảng, do các nhà trường cấp. Họ thực là một tấm gương sáng về đọc sách, tự học và nghiên cứu. Đó là nhà văn Nguyễn Hiến Lê với sự nghiệp trước tác đồ sộ, nhà báo, nhà văn Phạm Quỳnh khi ông là chủ bút tạp chí Nam Phong; còn nhiều vị, nhà trí thức tầm cỡ khác nữa. Một thời, người ta vẫn nhắc tới những thư viện Nguyễn Hiến Lê, Phạm Quỳnh, Phạm Liệu, Vương Hồng Sển, Đông Hồ (với Diễm Diễm thư trang), Quách Tấn, Lê Ngọc Trụ…Và thành tích “tích thư” của những thư viện đó. Ông Lâm Ngữ Đường (1895 – 1976) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Giới ham đọc sách, giới trí thức Việt Nam đã tiếp nhận câu nói (vừa hóm hỉnh vừa nghiêm túc) của ông về đọc sách từ giữa thế kỷ trước: “Người trí thức ba ngày không đọc sách, nhìn vào gương thấy mặt mũi khó coi mà ăn nói cũng nhạt nhẽo, khó nghe” để tự nhủ mình, không bao giờ dám xao nhãng việc đọc sách.

Xưa, văn hóa đọc vui thế. Nay, văn hóa đọc sút giảm như thế nào và tại sao?
Việc sút giảm, ai cũng biết, vì báo chí đã báo động. Xin kể vài mẩu chuyện như để minh họa: Tôi có ba anh bạn viết văn. Anh thứ nhất, xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 10 của mình,  tặng cho anh bạn thân (có bằng Kỹ sư) một tập. Mấy tháng sau, hai người gặp nhau:
-Sách ông tặng, tôi mới đọc được 6 chữ: Tên tác giả và tên sách in trên trang bìa cứng, ông Kỹ sư nói.
-Cảm ơn, vậy là ông còn siêng đọc hơn người nhiều người bạn khác của tôi, nhà văn nói.
Anh thứ hai tặng anh bạn thân là giáo viên Văn một trường Cấp 3 tập tiểu thuyết thứ 4 của mình. Một tháng sau, nhà văn gọi điện, hỏi: “Ông đã đọc sách tôi tặng chưa? Được trả lời: “Mình đọc 5 trang, rồi bận quá, bỏ luôn”. Anh thứ 3, (tác giả 1 tập truyện ngắn, 1 tiểu thuyết). Trong một cuộc trà dư tửu hậu, tôi hỏi, ông thấy thế nào về thơ văn hiện nay? Nhà văn trả lời: “Văn, được vài tập truyện ngắn, còn thơ thì bái dài, vì nhà thơ cách tân quá, mình đọc không hiểu!”
Tôi có gặp một bài báo, tác giả tổng hợp những số liệu về tình hình đọc sách trên thế giới. Ở Nhật, tờ Yomiuri Shimbun (tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất ở Nhật) mở một cuộc điều tra. Hỏi 1869 người về đọc sách trong tháng, được kết quả như sau: 1 / 2 nói quá bận, 18 % nói không quan tâm. Ở Hồng Kông, nơi có nhiều loại hình giải trí, đặc biệt là karaoke, điện ảnh… Kết quả trả lời, lặp lại như ở Nhật. Thái Lan 55, 3 triệu dân biết đọc, nhưng chỉ có 61 % thường đọc mà 2 / 3 trong số đó đọc báo, số còn lại, 1 / 2 đọc tiểu thuyết và truyện tranh.

Bây giờ văn hóa đọc xuống cấp toàn cầu, chứ không riêng gì ta! Nhưng dù sao, đọc sách cũng là một nét văn hóa, lại là cấp cao, cho nên ta phải tìm cách chận đứng đà xuống cấp và phát triển nó chứ? Giải pháp gì, thật khó. Người đọc sách ít mà ai có đến với sách thì cũng mua sách đẹp về chưng, còn đọc thì đọc trên mạng, theo lối lướt web. Vậy thì đề nghị, ngày nay ta cứ như hồi xưa, in sách cầu tiện lợi (theo kiểu những mặt hàng tiện lợi khá phổ thông thời nay), bán với giá rẻ, để cho người ta dễ mua, bỏ túi, tranh thủ lúc rảnh đọc, chứ đừng bài bản quá. Dù sao, sách cũng phải là sách hay. Nhớ hồi xưa mà thèm, cuốn sách người ta đọc tới nhàu nát, phải hô “giấy rách giữ lấy lề”, còn bây giờ sách cứ dày cộp, bìa cứng, mười năm còn mới tinh trong tủ.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

Bàn tay nhỏ dưới mưa –  Trương Văn Dân 
      Lời giới thiệu
      BÀN TAY ẤY VẪN THANH XUÂN
      Nhật Chiêu 
      Vẫn là câu chuyện về tình yêu và cái chết.
      Vẫn là câu chuyện khổ đau và hạnh phúc
      Vẫn là câu chuyện hỗn loạn và bình an. 
      Nhưng Bàn tay nhỏ dưới mưa vẫn mang một phong vị đặc thù.
      Người đàn bà tên là Gấm tìm kiếm sức mạnh để sống và để chết trong một phối cảnh đáng sợ: trái  đất đang chết dần.
      Con người tham lam
      Và  trái đất cạn kiệt.
      Thiên nhiên, bà mẹ của phong nhiêu, từ nhiều năm qua đã sống lây lất đoạn trường giữa một nền văn minh điên loạn.
      Nhiên liệu sống liên tục bị đốt cháy một cách phí phạm và vô ích trong cuộc đời hối hả cuồng quay.
      Người đàn bà khát sống ấy đã chết trên một cõi  đất hoàng hôn hấp hối:
      “Nhìn nét thanh thản và mãn nguyện trên khuôn mặt Gấm tôi hiểu là người tôi yêu đã chết, nhưng không phải vì ung thư. Cô ấy chết vì ngộp thở khi bay đến đỉnh cao và hạnh phúc. Tình yêu và sợ hãi mất mát đã gặm nhấm buồng phổi, nó đốt cháy nhiên liệu sống và triệt tiêu toàn bộ năng lượng sinh học của nàng.
      Thế  giới bừng lên rồi chìm trong màn đêm đen kịt, chỉ có một tia sáng duy nhất là từ trái tim tôi, cháy bùng như ngọn đuốc, bay vút lên trời, quán chiếu vũ trụ này trong một niềm đau vô cùng vô tận. 
      Cái phong vị nồng thắm của tác phẩm nằm trong những nghịch lý mà nó muốn hóa giải: sống –  chết, khổ – lạc, sáng – tối, mất  – còn, ngã – tha, cũ – mới, tự  nhiên – văn minh, vô thường, vĩnh cửu,…
      chọn điều này sẽ phải bỏ điều kia, và như vậy khác nào đánh mất cả hai?” 
      Nhân vật và người kể chuyện muốn vượt qua vô  vàn tình huống phân biệt đó để trải nghiệm cái nhất như hoan lạc, một tư tưởng nhuốm màu sắc Phật giáo, đặc biệt phảng phất hương vị Kinh Duy Ma. 
      Bàn tay nhỏ dưới mưa là một tác phẩm đương đại, pha lẫn tiểu thuyết và tiểu luận, trữ tình văn xuôi và ký sự báo chí. Lằn ranh giữa những thể loại ấy dường như bị xóa nhòa, như một chiếc cầu trong mưa trong một bức tranh ấn tượng.
      Dù  vậy, ta vẫn nhìn thấy “bàn tay nhỏ dưới mưa”  của tác giả, một bàn tay vẫy gọi của tình yêu? 
      Tác giả Trương Văn Dân không còn trẻ, nhưng bàn tay ấy vẫn thanh xuân.
      Để viết những dòng văn đầy xao xuyến, đầy nhục cảm, đầy tâm linh, đầy kích động mà cũng đầy bình an. 
      Nhà  Văn Nhật Chiêu

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011





Tản văn Huỳnh Kim Bửu




Tản mạn gói mì ăn liền


Chúng ta đã ăn phở tái, bún giò, miến ngan… từ xa xưa (từ thuở Hà Nội - băm sáu phố phường, Huế - thần kinh) nhưng ăn mì ăn liền thì mới chừng mấy chục năm nay.

Mì ăn liền là một thực phẩm khô, chiên trước với dầu cọ, vô gói (từ 60 -  80g), ăn liền sau 3 -  5 phút dội nước sôi lên. Mì ăn liền ra đời muộn mà có sức lan tỏa, “chiếm lĩnh thị trường” mạnh, nhanh, đến sớm rộng khắp. Có thể nói, ngày nay gói mì ăn liền đã đến với từng nhà, kết bạn với từng người. Có thế, nước ta mới mỗi năm sản xuất tới 6 tỉ gói mì với đủ các thương hiệu (Hảo Hảo, Miliket, 3 Miền, Tiến Vua, Bò Rau Thơm, Gấu Đỏ… Mì lâu đời nhất là mì Colusa gói giấy vẫn còn được ưa chuộng). Có những con số của năm 2005, tôi đọc được trên báo: Trung Quốc, ăn nhiều mì tôm nhất thế giới với 44, 3 tỉ gói / năm 2005, Indonesia thứ hai với 12, 4 tỉ gói / năm 2005, Nhật thứ ba – 5, 4 tỉ gói / năm 2005. Tiêu thụ mì ăn liền nhiều nhất, tính theo đầu người: Hàn Quốc 69 gói / người / năm,  Indonesia 55 gói / người / năm, Nhật 42 gói / người /  năm. 

Nó nhờ vào đâu vậy?

- Chắc trước hết, nó nhờ vào cái giá rẻ: Trừ gói mì 5000đ – 6000đ dành cho người chuộng món ngon, gói mì phổ thông ba bốn ngàn đồng / gói, rẻ hơn cả đĩa bánh xèo rải rau giá búp, chén bánh bèo rắc tôm bột của mấy bà bán dạo xóm cho người nhàn rỗi vừa ngủ giấc trưa dậy. Đó là nói thời giá bữa nay, chứ hồi cách đây vài năm, mì ăn liền chỉ 500đ / gói thôi. Ít thấy có món vừa rẻ vừa ngon, theo nghĩa “tiền nào của nấy”, như gói mì. Ăn phở bò, bún giò thì “dội” lắm, lâu lâu mới dám cải thiện một bữa. Ăn bún cá, bún riêu cua giá cũng gấp rưỡi, gấp đôi gói mì tôm, mì thịt bằm ăn liền. Ăn bánh xèo, bánh bèo, ổ bánh mì cặp thịt “bình dân” đấy, nhưng bị thiếu nước, khô khan, khó nuốt, nhất là đối với người già ăn ít, có tật ăn hay mắc nghẹn. Sau cùng, nhiều người đã chọn “giải pháp” ăn gói mì, vừa rẻ vừa có cả cái lẫn nước, dễ nuốt trôi. Ăn xong tô mì tôm (cách gọi chung cho các loại mì), anh công nhân, chị cán bộ, bác nông dân yên tâm rằng mình đã nạp đủ “năng lượng” cho một buổi mai làm việc, từ sáng tới trưa. Nói, nhờ giá rẻ mà mì ăn liền tiêu thụ mạnh, “chiếm lĩnh thị trường” nhanh, chưa chắc trúng! Vì có những nước giàu vẫn ăn nhiều mì tôm kia mà.

- Ưu điểm thứ hai của gói mì tôm dễ thấy, là tiện lợi. Trước hết, tiện cho việc để dành, để trên bàn ăn, đậy rổ lại, hoặc cất trong chạn là tốt, miễn sao đừng để chú chuột đục khoét. Vì chuột mà đục khoét gói mì, chẳng khác gì ông Tám Khừng quê tôi, gặp cỗ giỗ được cho ngồi vào mâm. Mà cũng tiện cho việc chế biến, người bận rộn công việc, với gói mì tôm và chút nước sôi trong phích là có ngay bữa ăn, ăn lẹ. Bởi khỏi phải chế biến lâu lắc, ăn lẹ để còn công việc, gói mì tôm mới được đặt tên là “mì ăn liền” (nhưng cái tên này  người ta ít gọi hơn cái tên mì tôm đã quen miệng, quen miệng đến mức gói mì chay cũng bị gọi là mì tôm chay).

Trong đời, tôi đã gặp nhiều cảnh ăn mì ăn liền cảm động lắm. Cái hôm máy bay trực thăng sà xuống tới đọt tre, thả hàng cứu trợ xuống “ốc đảo” quê tôi (vùng đang bị thiên tai lũ lụt bao vây), tức thì từ trong các nhà ngập lũ sâu, bà con đã ào ra, bơi theo dòng nước cuộn chảy, vớt những thùng mì tôm bọc trong giấy nhựa. Và từ bữa đó, bà con làng tôi đã ăn mì tôm cầm hơi, suốt những ngày bão lũ gian nan, cơ cực. Khối cô cậu sinh viên, học sinh nghèo trọ học xa gia đình, vừa mua sách học vừa “kế hoạch” túi tiền, mua chục gói mì tôm để dành “ăn dặm”, vì nhiều bữa phải mì tôm thay canh, mì tôm bữa sáng đến trường, bữa tối thức khuya học bài. Khối anh chị công nhân nhà máy, ông bà cán bộ hưu trí (từng làm nhân viên cho lãnh đạo), đến kỳ lĩnh lương, liền ưu tiên dắt nhau ra siêu thị, mua một thùng mì tôm ôm về, bảo đã làm xong “kế hoạch tiền lương”. Một bà chủ quán trong khu dân cư nghèo đã có lần kể cho tôi nghe, những ngày giáp Tết, quán bà bán mì tôm chạy lắm, nhà nào cũng mua mì tôm ăn Tết, có nhà mua tới mấy thùng. Hình như đoán trước được, tôi sẽ có câu hỏi, tại sao, bà giải thích luôn: “Bởi tại cái gu của dân vùng này và cũng vì, bà con sợ ngày Tết quán xá nghỉ, mà lo trước còn hơn”.
  
Không ít người phong lưu, thích ăn ngon, phải bữa mì tôm, người ta đã “gia công” cho gói mì: cho thêm thịt ướp, chả giò, nhánh rau thơm, tiêu bột, củ hành ngâm chua, dội nước lèo nấu xương heo, sụn bò… Thế là thực khách có được một tô mì tôm hảo hảo, khác xa cái hương vị ban đầu của nó. Hương vị thuở ban đầu của tô mì ăn liền, nếu là mì tôm thì có chút hương vị tôm, mì thịt bằm chút hương vị thịt, mì bò bip – tết tí xíu hương vị thịt bò. Ngoài cái hương vị thịt hay tôm, theo tên gọi của gói mì, còn có cái hương vị rau thơm, cà rốt (hoặc khoai tây, đậu Hà Lan), muối, bột ngọt có trong bì gia vị của mỗi gói mì… Mì chay có hương vị nhiều loại rau: ngò thơm, cà rốt, khoai tây… và mùi thơm nấm (thay cho hương vị thịt, tôm, cua).

Đem mì tôm so sánh với bánh bèo, bánh xèo mới thấy cái “bất công” trong sự “đối đãi” của con người. Gói mì tôm (ba, bốn ngàn đồng) lại được sản xuất trong nhà máy công nghệ với dây chuyền sản xuất tiên tiến, có thương hiệu mĩ miều, bao bì láng bóng rực rỡ, được đóng thùng lịch sự, sang trọng; trong khi đó cái bánh chưn, chồng bánh xèo, đĩa bánh bèo…(cùng giá) lại chế biến trên lò than, bếp củi lọ lem, tới khi có cái bánh rồi, cũng chẳng gì hơn, vì bị thảy ra mâm, ra mẹt. May mà gặp người ăn tinh đời, có bụng tốt còn biết, đây là: “Món ăn dân dã”… để mà thương nhau.

Mì ăn liền chắc không bị cuộc cạnh tranh ráo riết, mặc dù ngày nay có xuất hiện gói phở ăn liền, miến ăn liền, cháo ăn liền… Tôi nghĩ, những gói sau này chỉ làm đa dạng, phong phú thêm cho gói mì ăn liền đang phục vụ cuộc sống hối hả thời nay.

Thử hỏi, ở trong nước mình, món ăn nào có tính phổ cập, “phủ sóng” toàn miền, toàn cõi, toàn quốc? Phở chăng? -Nhiều thị trấn không có quán phở tái, nạm. Bún bò giò heo chăng? –Cũng không. Cháo lòng, bánh hỏi thuộc “gu” của dân Bình Định, nhưng nơi khác thì cũng chẳng có “biệt nhãn”gì. Cao lầu vẫn “cố thủ” ở thành phố Hội An – Quảng Nam, Don “an phận thủ thường” ở thành phố Quảng Ngãi… Thưa, chỉ có gói mì ăn liền.

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Xin giới thiệu 




Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa”
           Trương Văn Dân
    Công ty văn hoá Phương Nam & Nhà xuất bản Hội nhà  Văn
           Phát hành toàn quốc theo hệ thống  PhuongNam Book
    Trích đoạn 1         


    Tóm tắc : Sau hai cuộc hôn nhân đổ vỡ  và những lần tự tử bất thành, “ sau bao vật vã, trong một đêm mưa em đã tìm lại được nửa kia của mình. Cái nửa mà Thượng đế, nhằm trừng phạt về tội tham lam và độc ác, đã chia mỗi con người thành hai mảnh, buộc họ phải bôn ba khắp quả địa cầu để tìm lại nửa kia thì mới có được  bình an. Kể từ ấy, tự mấy nghìn năm nay, con người đã vất vả, lao đao. Không mấy ai trên cõi đời may mắn tìm thấy nửa phần thất lạc của mình. Phần lớn chỉ làm những ghép nhặt không ăn khớp. Để thay vì khoả lấp nỗi cô đơn, trống trải lại nhân lớn thêm lên. Để thay vì sống chung hạnh phúc, họ chỉ gây cho nhau nhiều điều bất hạnh. Để thay vì vui hưởng bình an, họ chỉ nhấn chìm nhau vào cơn bão lửa, hận thù. Còn em... Em đã  gặp được anh, như tìm thấy nửa mảnh khít khao của mình. Anh ơi, em yêu anh lắm. Gặp anh, em như đã có đầy đủ những gì em khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát.”  
    và  sau mấy tháng quen  nhau và hút nhau,  người đàn ông của nàng phải đi công tác  ở nước ngoài.
        Đây là khoảng thời gian Gấm đang đợi chờ ngày tái ngộ…
“....Anh về sớm hơn ba ngày mà không báo trước.  Lúc anh gọi từ sân bay Tân Sơn Nhất tôi cứ tưởng cuộc gọi từ nước ngoài. "Em thu xếp  và đến với anh đi. Đến ngay nhé! Căn nhà ở ngoại ô, qua cầu  Bình Triệu, nằm bên dòng sông đó!"
      Tôi kêu lên mừng rỡ. Thu xếp vội vàng công việc, tôi phóng như bay đến với anh. Chưa kịp chống xe, anh đã bế lấy tôi  làm chiếc xe máy ngã lăn kềnh trước ngõ. Bước vào nhà, hấp tấp. "Anh mong em quá. Đêm nay ở lại với anh đi!". Tôi run lên vì cảm động. "Còn bé gái. Em không thể ở qua đêm". Nói thế nhưng tôi đã thu xếp và ở lại nhà anh ba ngày, hai đêm. Suốt thời gian "trăng mật" cả hai không hề bước ra khỏi nhà, và tôi, tôi chỉ quanh quẩn bên anh như con mèo ngoan ngoãn, lúc nào cũng cuộn tròn trong lòng anh. Để được vuốt ve. Vỗ về. Che chở.
      Khi anh đặt nhẹ tôi trên giường  thì tôi vội  ôm chầm lấy anh. Kéo xuống, cả hai lăn xả vào nhau, quấn quít, những giọt mồ hôi rịn ra từ  trán anh  như hoà với nước mắt của tôi  đang tuôn trào vì hạnh phúc. Môi anh mơn man trên khuôn mặt tôi đầm đìa nước mắt. Tôi hớp lấy từng giọt, từng giọt, tham lam nuốt chửng như sợ phí phạm những giọt tình yêu  đang chảy trên má mình. Anh ơi mùi vị này thật ngọt ngào sau bao ngày khát khao, chờ đợi. Cảm xúc  của tôi tăng dần khi toàn thân cảm nhận những nụ hôn cháy bỏng từ đôi môi thèm muốn của anh.  Có lúc anh vít lấy đầu tôi, rót vào tai một âm điệu du dương ngọt ngào :" Hãy buông thả đi em.” "Dạ, dạ ... anh làm gì em cũng chịu hết! ". Hơi thở đứt quãng làm tiếng tôi như khàn đục. Tôi cuống quít như bị hớp mất hồn. Nhắm mắt, tôi nghe máu nóng chảy rần rần trong cơ thể. "Anh ơi, em chết mất". Anh quàng lấy thân người tôi đang run rẩy " Em hãy bay đi!" rồi siết mạnh và tình tứ nhìn tôi. Cái nhìn vuốt ve, đắm đuối, cái nhìn như cơn bão xoáy, cuốn hút rồi lốc tôi rơi vào giữa đại dương êm ái. Tôi miên man ngụp lặn. Bờ môi tôi cuống quít áp lên cổ rồi trườn xuống lồng ngực đầy nam tính của anh đang phập phồng. Tôi hôn anh nhẹ nhàng. "Anh ơi, em si mê anh...lúc nào em cũng khao khát thèm muốn anh" "...Anh ơi ôm chặt em đi, mau đi anh...". Rồi...Những tiếng rên rỉ  làm không gian rung lên. Đất trời vần vũ, chuyển mình trong lôi cuốn huyền hoặc của tình yêu. Ngọn lửa đam mê trong lòng như đốt tôi  thành hơi nước, thăng hoa trong tiếng rên rỉ và giãy đạp của cảm xúc...Tôi không còn biết gì, toàn thân ngây dại, chỉ nghe tiếng trái tim mình đập liên hồi, theo cái nhịp gấp gáp của anh đang bóp thắt trong tôi.
       Trong khoảnh khắc, mọi phù phiếm của đời sống đều bị chìm đi, mất hút, cái còn  lại là  cảm giác đê  mê của sự hiến dâng, cho và nhận, vút bay lên chín tầng trời. 
      Chúng tôi nằm ôm nhau trên giường mà tưởng như  có một vầng mây gấm đang nhấc lên cao, triệt tiêu mọi hấp lực của trọng trường, từ từ tách khỏi mặt đất, trôi trong thinh không tịch mịch, lững lờ trong hư vô bát ngát... rồi cả hai đều chìm trong trạng thái xuất thần, nửa mê, nửa tỉnh. Chúng tôi bám chặt vào nhau nhưng cố gắng không cử động hay nói một tiếng nào để không phải phá tan cái phút giây thiêng liêng ngạt ngào hương vị đó.
          Khi thấy mắt anh lim dim, không muốn anh  đứng lên làm mất giấc ngủ đang ùa đến, tôi vội đi pha nước ấm, cẩn thận thêm một chút tinh dầu để lau người cho anh. Phơi  trước mặt tôi là một thân hình  đàn ông khoẻ mạnh, trần truồng. Đó là tấm thân đã gắn với tôi bằng một quan hệ sâu xa còn hơn máu huyết. Tôi biết đó là thân hình đẹp nhất mà tôi có thể nhìn thấy trên đời. Bởi nó là sức mạnh trừu tượng của tình yêu được hiển thị thành xương thịt.”
……


Tác giả mong đón nhận những góp ý và nhận xét phê bình của bạn đọc:
LÒNG YÊU SỐNG 
PHẠM XUÂN NGUYÊN
      Sinh thời, nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đang còn là  Viện trưởng Viện Văn học, nhân một lần trò chuyện văn chương chữ nghĩa ông bảo tôi là ông không thích cái tên dịch một truyện ngắn của nhà văn Mỹ  Jack London là “Tình yêu cuộc sống” (Love of Life). Nhà thơ bảo nên thay chữ “tình yêu” bằng chữ “lòng yêu”. Ông nói chữ “tình yêu” trong tiếng Việt như đã đặc dụng cho đôi lứa nam nữ, còn chữ “lòng yêu” là dùng cho mọi đối tượng. Dịch cái tên truyện của Jack London thành “Lòng yêu cuộc sống” đúng và hay hơn. Tự nhiên tôi nhớ câu chuyện này khi ngồi gõ phím bàn tính viết đôi lời mở đầu cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Trương Văn Dân mang tên Bàn tay nhỏ dưới mưa. Nội dung cuốn truyện là kể về tình yêu của một người con gái tên Gấm. Gấm đã trải qua hai cuộc hôn nhân không tìm thấy hạnh phúc. Trong lúc đau khổ và tuyệt vọng nhất Gấm đã gặp được người đàn ông của đời mình, người đã mang lại cho Gấm không chỉ một tình cảm lứa đôi (tuy không làm vợ chồng) trọn vẹn, đằm thắm, mà còn cả một cuộc sống làm người đầy đủ, phong phú. Có lẽ vì số phận nhân vật như thế, nội dung truyện như thế, nên tự nhiên mà đọc xong xui tôi nhớ đến cách dùng chữ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Và tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết của Trương Văn Dân là một khúc ca trầm về lòng yêu sống. Không chỉ yêu tình yêu mà còn yêu sự sống, một sự sống đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi chính con người. Tình yêu của Gấm và người đàn ông lý tưởng của cô được tác giả đặt vào trong một môi trường xã hội và tự nhiên đang bị con người vấy bẩn, làm ô nhiễm, tàn phá, hủy hoại. Khác với những khung cảnh lãng mạn nên thơ của tình yêu truyền thống. Phần này của truyện lồng ghép một cách trực tiếp, trực diện, có thể chưa phải đã tự nhiên, khéo léo về nghệ thuật, nhưng thông điệp tác giả muốn truyền đi thì đã rõ. Nó giúp tác giả nói lên lòng yêu sống toát ra từ tình yêu của Gấm.
      Tôi gọi Bàn tay nhỏ dưới mưa là khúc ca trầm vì tác giả dùng hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất thông qua cuốn nhật ký của Gấm ghi chép về cuộc đời mình. Những ghi chép này làm thành phần đầu cuốn truyện. Chúng được nhân vật người đàn ông của cuộc đời cô tìm thấy và công bố khi cô không còn hiện hữu về thể xác trên cõi đời. Và đó là phần sau cuốn truyện. Trong những ghi chép của mình, Gấm soi chiếu toàn bộ cuộc đời cô dưới ánh sáng của cuộc tình cuối cùng. Chủ yếu ở đây là chiêm nghiêm tâm trạng. Những sự kiện, tình tiết được kể lại hay nhắc đến chỉ để khơi gợi nỗi yêu và nỗi đau của Gấm, cho cô những trường hợp để trăn trở nghĩ suy về cuộc đời, tình yêu, và lòng người. Nhân vật người đàn ông nhà báo đã cứu vớt cuộc đời cô, đã yêu cô làm cô hồi sinh và hạnh phúc, được Gấm ngợi ca như một con người toàn bích, lý tưởng. Nhưng lắng sâu vẫn là nỗi buồn lo, phấp phỏng cho sự mong manh của kiếp người, của cái đẹp, cái thiện trong đời. Tác giả dùng lời cho Gấm nhiều những câu dài miên man cảm xúc, nhiều những nhịp điệu thăng trầm tâm trạng. Đồng vọng tương cảm với những ghi chép của Gấm là những cảm nhận, suy tư của người đàn ông nhà báo khi đọc chúng. Người đọc tiểu thuyết vì thế được dòng tình cảm của hai nhân vật cuốn đi mê mải buồn. Dừng ngắt ở chỗ nào cũng là chưa đủ. Mà bắt đầu từ ở chỗ nào cũng vẫn kịp. Có thể đấy là một dụng công viết của tác giả, phải chăng. Câu truyện trong tiểu thuyết có thể là một phần đời đã sống của tác giả, cũng có thể chỉ là hư cấu, điều này tùy thuộc cảm nhận của mỗi người đọc sách. Nhưng khát vọng sống, khát vọng yêu cho con người hạnh phúc giản dị thường ngày, vượt qua và vượt lên những oan trái, khổ đau, cả những bất trắc rình rập từ những hiểm họa thiên tai và nhân tai, đó là điều tác giả tìm mọi cách trình bày và truyền tải đến người đọc qua nhiều lớp ngôn từ được huy động và sử dụng. Cảm tưởng như tác giả muốn rung lắc độc giả lay động theo từng con chữ anh viết để chia sẻ cùng anh những điều tin lo.
      Trương Văn Dân nhiều năm sống xa xứ, làm một ngành nghề không dính tới văn chương. Nhưng anh cầm bút trước hết để được sống cho mình, sống với mình, từ những hồi ức kỷ niệm về quê hương, người thân, mà đã là người Việt nặng tâm tình thì dù ở đâu đi đâu làm gì cũng đều canh cánh bên lòng và vấn vương trong hồn. Lòng yêu sống ở anh thấm vào trong câu chữ mộc mạc, chân tình, ngay ở tác phẩm đầu tiên - tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lại. Viết tiểu thuyết với Trương Văn Dân còn hơn một sự thử bút ở thể loại dài, đó là sự trang trải, giãi bày một tình yêu, một lòng yêu, của mình cho mình, và cho người. Đọc Bàn tay nhỏ dưới mưa, tôi không để mình bận tâm lắm về kỹ thuật viết, tôi để lòng mình cho rung động theo lòng tác giả và nhân vật, và tôi thương cô Gấm như tác giả thương.
      Có  một lòng thương người như thế mới có một lòng thương đời đến thế. Và khi đã chạm vào chữ thương thì “người đọc người thương nhau” (Chế Lan Viên). Cuốn tiểu thuyết này vì vậy là một bàn tay vẫy trong mưa với ai cho ai từng có/gặp một người như Gấm. Đấy là sự sẻ chia của/với tác giả. 
Phạm Xuân Nguyên
   ( Nhà phê bình văn học)
      Hà Nội 29.8.2011

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011



Thơ Huỳnh Kim Bửu




Trăng đưa em
qua những ao xanh



Trăng rải đường làng
Anh Chí đi in bóng xiêu đổ
Anh Chí chửi bóng mình
Thật hăng.

Trăng rải đồng làng
Bông lúa chín
Thôn nữ hát
 “ Tình bằng…”
Không gian hòa âm.

Đợi khách trên sông
Ông lái mân râu
Vuốt từng sợi trăng
Khua mái chèo
Trong đêm trong veo.

Đêm giã gạo
Cối gạo trắng ngần
Trăng vẫn thanh
Không phải: “Trăng tàn trên hè phố”
Em có về
Trăng đưa em qua những ao xanh?

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

      Lời giới thiệu  “Mùa hè tươi đẹp ”
Cesare Pavese- cuộc đời và tác phẩm
        Sự chọn lựa  tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp ” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết do giá trị văn học1  của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng  của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX .
      Được viết từ 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita’) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét vì phản ảnh sâu sắc hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập : Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả, khởi đầu cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được  tác giả thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại.
                              *
   Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và trong cùng  thể loại  cũng luôn có rất nhiều sự khác biệt. Sự khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ văn phong đa dạng, cách  xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú... để người đọc khỏi nhàm chán  rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt... đã làm tác giả nổi tiếng, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX.
      Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà còn cho  nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.
 Ông đã viết như thế này :
Quê tôi  chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó nằm kề con đường liên tỉnh mà ngày nhỏ tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp  thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa  rồi quay lưng  và nói với người hiện diện:“ Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã  đến đây từ đó”.
      Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khoả nỗi nhớ quê xưa.
      Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và  trìu mến.
      Khi sống  và tiếp cận với  thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và  đầy sương mù như Torino, Pavese  càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự  hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt  đầu đi tìm kiếm sự chân thực.
      Như  tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm mà không giúp được gì nên ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín lên số phận của mình. Trong các bức thư của ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, như một mời gọi cho sự tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ  chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ “ Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust.
      Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống,  ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người; Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết  nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết : “ Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng  trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”.
      Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese  đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết  các xung đột  nội tâm.
      Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại  hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người  vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “ người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông  bỗng trở nên tử tế, nhân bản,  trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã  mang  đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào  bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông.
      Năm 1930, lúc chỉ vừa 22 tuổi ông tốt nghiệp đại học với luận án  về sự lý giải  thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác  với tạp chí “ Văn hoá ”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất  nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ và trong thời gian rất sớm ông đã nổi danh. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc  tìm được những  gắn bó bạn bè:  điều này giúp  anh  hiền hơn trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học.
      Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn  tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em  Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết.
      Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “ Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một  cánh cửa cho một thời kỳ mới  của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem  cuộc đời vô ích  và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử.
      Năm 1933  khi nhà xuất bản Einaudi   được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự  nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15/5/1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý.  Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3- 1936, nhưng sự trả tự do này  oái ăm thay lại trùng hợp với  sự thất vọng cay đắng của đời ông:  Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi  bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm  tù đày đớn đau ( sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với  sự thất vọng về tình yêu  đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông  ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau  vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu.
      Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học : Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức-dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến  truyền thuyết và nhân chủng học,  thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành  tác phẩm “Đối thoại với Leucò .”
      Về  sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đóm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về nước Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã   sáng tác và in thành một tập thơ mang tựa đề: “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi  mắt của em...”
      Sau trận thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học ( 1938  tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được xem như tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt  nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của  tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách  ban đêm: “ Tôi tha tội cho  tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều .” Năm ấy ông chỉ vừa  42 tuổi.
Tác Phẩm  “Mùa Hè Tươi Đẹp ” 
      Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ” nằm trong luồng văn học biểu tượng.
      Mùa hè  diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác  đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam  mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước  sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi  của mình.
      Đây là câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi  chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Bối cảnh của tiểu thuyết là những năm tháng sau khi chiến tranh chấm  dứt. Tại thành phố này cô tìm được việc làm như người phụ giúp trong một tiệm may.
      Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự  sỉ nhục tồi tệ trong  thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành  phố làm cho loá mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu.
      Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong  các thành  phố cho là hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là bởi tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế  tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ” không chỉ là một câu chuyện  kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái  trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa là tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  là chuyện kể về sự bảo vệ tiết trinh.
      Ginia đã bị lôi cuốn vào một thế giới hoàn toàn trái ngược với cô: những chàng hoạ sĩ của thành phố Torino vào những thập niên bốn mươi của thế  kỷ trước. Một bạn gái đã dẫn cô vào môi trường ấy. Cô bạn này, là một người dễ dãi và chỉ biết quan tâm đến tiền, cô ta ngồi làm mẫu cho các chàng hoạ sĩ. Trong môi trường ấy Ginia  đã làm quen với Guido, cô ngưỡng mộ và yêu anh, nhưng về sau cô mới hiểu là tất cả những gì có xung quanh thế giới hội hoạ ấy chỉ là ảo ảnh.
      Tựa  đề ban đầu  của tác phẩm chính là “Chiếc màn ”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo... vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai,  mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Bởi, núp sau bức màn đó còn có Rodrigues, một hoạ sĩ khác, đang lén ngắm cô khoả thân ngồi mẫu cho Guido. Hổ thẹn, buồn cười, trong  sự thất vọng, cô ngã vào vòng tay của Amelia, lúc này đã bị nhiễm bệnh giang mai từ quan hệ tình ái với một người đàn bà; biểu tượng của cái chết. Ê chề và tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn    “ Thôi mầy hãy dẫn tao đi”.
      Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp ”   rất  đơn giản về cốt truyện nhưng có nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ ( Ginia) và sự hư hỏng, thoái hoá (Guido và Amelia). Sự đánh mất hồn nhiên của cô gái chính là bước chuyển biến  từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho sự chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được uỷ thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Như Ginia đã nhìn Amelia, tàn ác mà quyến rũ , cuối cùng đã   lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết.
Văn phong
      Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu  vừa- nhanh.
      Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc  trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật.
      Trong tác phẩm của Pavese văn phong hoà lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong thực trạng nội tâm. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh  từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ cách dùng câu đẳng lập 2. Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ” có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi  nó tương xứng với trình độ văn hoá của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm.
                              Itala Elena Pucillo Trương
                                                         ( TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) 
Vài nét về dịch giả  TRƯƠNG VĂN DÂN    Quê ở Bình Định  Năm 1971- Du học ở Italia ngành Hoá và Công Nghệ Dược.
Từ 1980 Phụ trách về tổng hợp hoá dược và từ 1985, nghiên cứu và phát triển dược phẩm, dùng cho người và cho thú y.

Đã viết, dịch và cộng tác với các tạp chí trong và ngoài nước.
Tác Phẩm đã xuất bản :

Hành Trang ngày trở  lại ( Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, 2007)
Bàn tay nhỏ  dưới mưa ( Truyện dài, PNB-Nxb Hội Nhà Văn, 2011)
 Mùa hè tươi đep   ( Truyện  dài, dịch từ nguyên tác “ La bella estate” của Cesare Pavese, Italia)
Tác phẩm đang in :    
Những ngày  đánh mất ( Tập truyện dịch, gồm 20 truyện ngắn  và một truyện vừa của Dino Buzzati, Italia) 

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2011



Thơ Huỳnh Kim Bửu



Lập Đông về


Lập Đông trước, lập Đông sau
Rét cũ còn trong chăn
Đắp làm sao đủ ấm.

Mưa dầm lũ tràn
Cuốn trôi hết cái nghèo cái khó
Còn lại cái tay không
Nhận quà cứu trợ
Từ lòng thảo thơm.

Còn lại cánh đồng
Không ra cánh đồng
Giọt mồ hôi rục
Bùn non.

Lập Đông về
Những người già gọi điện nhau
Nỗi thương nhớ
Nghẹn hai đầu
Dây nói.

Lập Đông về rét trong gió
Nhựa lặn trong cây

Một ngày nắng ấm
Bật thành nụ hoa.


Tiết Lập Đông năm Tân Mão – 2011.

Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011



Tản văn của Huỳnh Kim Bửu

Thưởng vị trà
Kích thước chữ: Decrease font Enlarge font


Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi (như người cày đồng về nhà, khát nước, “kéo gáo” bên vò nước lã) mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Có hương thơm? Trà lài hay trà sen? Trà ngây hay trà ngọc lan? Trà Lâm Đồng hay trà Bắc Thái?...


Uống trà là cái thú thứ nhất đối với nhiều người: “Một  trà, một rượu, một đàn bà/  Ba cái lăng nhăng nó quấy ta” (Trần Tế Xương).
Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi (như người cày đồng về nhà, khát nước, “kéo gáo” bên vò nước lã) mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Có hương thơm? Trà lài hay trà sen? Trà ngây hay trà ngọc lan? Trà Lâm Đồng hay trà Bắc Thái?...

Chiều hôm trước, Hòa thượng Tịnh Như đã bơi thuyền ra giữa hồ sen trước cổng bam quan chùa Viên Giác, đặt những túi trà Đài Loan nho nhỏ (gói trong giấy quyến) vào các búp sen hàm tiếu, đặng ướp cái hương nhụy của sen qua đêm.
Sáng ngày sau, Hòa thượng lại bơi thuyền ra, thu lại những gói trà ấy và hứng luôn những giọt sương đêm đọng trên lá sen, lá súng để rồi đem cả hoa, cả nước vào chùa quạt lò, đun nước, pha trà và đợi khách mộ đạo về chùa chùng ngồi đối ẩm chén trà “hầu tàn” vừa mới dâng cúng Phật.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đi tìm cái thú thanh cao không kém khi ông đi tìm một “áng hương trà”: “Hương biếc tràn quanh nắp đậy hờ/ Ấm sành nho nhỏ khói lên tơ/ Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm/ Ai biết mình sen rụng xác xơ” (Qua áng hương trà).
Nhà thơ Quách Tấn tiễn bạn ra đi: “Hương trà chưa cạn chén hàn ôn/ Thuyền đã buông theo tiếng sóng dồn/ Ngắm vọi mây thu ùn mặt biển/ Gác chuông thành cổ động hoàng hôn” khiến những người trong cuộc bịn rịn tấc lòng, không muốn chia tay nhau.
Uống chén trà trong sương sớm (Bình minh sổ trảng trà) là cái thú của người dậy sớm để chào đón ngày mới, tận hưởng vẻ đẹp rực rỡ của một buổi bình minh.
Uống trà cũng như uống rượu, ít khi người ta chịu uống một mình (độc ẩm). Mà dẫu có độc ẩm thì cũng tìm bạn nơi chính mình (là hai), với vầng trăng tình tứ nữa (là ba). Trong mỗi cuộc trà, tùy theo số người “đối ẩm” mà có tên gọi khác nhau: “Song ẩm” (hai người, có chén tống, chén quân) “tam, tứ ẩm” hay “quần ẩm” (ba, bốn người…).
Và cũng bởi người ta uống trà “vị nghệ thuật” như thế cho nên mới có đủ thương hiệu trà. Trà Bắc Thái, trà Lai Châu… cho người ưa trà Bắc; trà Lâm Đồng, trà Bảo Lộc… cho dân nghiện trà cao nguyên. Trà lài, trà ngâu hay trà sói, trà ngọc lan hay trà sen…
Mỗi người, mỗi giới ưa chuộng ở trà một hương vị riêng. Lại còn trà của hãng nào nữa? –Xưa, có Kim Tiền, Đài Loan… là trà hảo hạng; nay có Ô Long, Tín Thái, Việt Nam Danh Trà… là trà có tiếng. Đó thật là cả một sự cố công của giới kinh doanh trà.
Giới đệ tử của trà (vì bên Nhật có Trà đạo) đâu chỉ nghiện nước trà mà còn nghiện cả cái thú chơi đồ trà. Tôi ở Quy Nhơn, bạn tôi trong giới đệ tử nhỏ của trà, ở thị trấn Bình Định. Tôi lên chơi nhà bạn thường mỗi năm cũng mươi lần. Mươi lần tôi lên chơi, mươi lần bạn đem ra bộ ấm chén “bóc tem” giới thiệu và pha trà thết tôi để chứng tỏ rằng, mình là dân chơi đồ trà danh bất hư truyền.
Dân buôn đồ cổ và dân chơi đồ trà xưa nay vẫn chưa làm sao thay đổi được câu xếp hạng những bộ đồ trà “độc”: “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần” đã lưu truyền từ xa xưa.
Người bạn thâm giao đã thuyết cho tôi nghe tới trăm lần về cái đặc điểm của ấm Thế Đức gan gà mà gia đình anh đã “thủ đắc” tới đời anh là đời thứ năm.
Anh bảo: “Giống ấm đó khi chùi thì đừng có chùi lòng ấm vì đó là chỗ vị trà lưu cữu; thử cho biết có phải ấm này thứ thật thì hãy cứ úp xuống mặt gương của bàn anh đang ngồi uống trà, nếu thấy bộ ba vòi-miệng- quai ấm mà nằm cắn chỉ tăm tắp trên mặt gương, thì đó là ấm Thế Đức gan gà chính hiệu; ấm trà nóng mới pha tức thì mà đưa tay sờ da ấm, sẽ thấy lạnh tanh như anh đang sờ tay vào vỏ bình thủy; khi đi mua ấm trà hãy coi chừng tay bán hàng phỉnh anh, nó giấu cái nắp ấm mà chỉ bán cái thân ấm, để bữa sau lại đem bán một mình cái nắp ấm, buộc anh mua với giá chém ngọt cái cần cổ của anh”.
Nhà nghiên cứu sưu tầm văn hóa ẩm thực Nguyễn Phúc vẫn khoe bộ đĩa trà mà đĩa và ba chén trà đều sứ men xanh, vẽ tiều phu gánh củi. Chủ- khách, ba người, mỗi người một chén trà, hô một hai ba, cầm trôn chén “bong” như bong vụ, rồi thả chén ra mặt chiếu cho nó xoay tít, xoay tít… Thét một chặp, chén hết “tua” ngã lăn, rồi tự đứng dậy cho ông rót ba chén trà Ô Long, tiếp khách quý.

Theo: Giác Ngộ online 

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011



Thơ Huỳnh Kim Bửu



Những tình đợi cất thành thơ


Có ai thăm chừng lá đỏ
Gió xuân đã thổi hay chưa?
Đò tình còn trôi chưa đỗ
Sông xuân một dải trong mưa.

Có ai thăm giùm hoa nở
Giọt sương có gội chiều qua?
Thương ai cầm xuân đi hỏi
Vu vơ một cõi Ta Bà.

Hỡi tình có thương không nhỉ
Mà em lỡ mất xuân thì
Có tại bóng chiều thủ thỉ
Ngàn dâu còn mãi xanh rì?

Xuân của đất trời thì mới
Xuân em chưa cũ bao giờ
Hỡi những ngày vừa chín tới
Những tình đợi cất thành thơ.

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Bút ký của Huỳnh Kim Bửu


Kiến trúc ở làng
(Tiếng đồn Bình Định tốt nhà – Ca dao)



Kiến trúc ở làng khá phong phú và cũng làm nên đặc điểm của kiến trúc ở nơi này.

Trước hết phải nói về nhà tranh vách đất, vì đó là ngôi nhà của phần đông nông dân.

Nhà tranh vách đất có nền, móng bằng đất đắp, khung nhà bằng tre, mái lợp tranh. Cũng có nhà khá hơn, làm móng đá ong, cột kèo là những thân cây cau, cây xoan đứng thẳng hạ từ trong vườn nhà… Người ta thường gặp những nhà tranh vách đất ba gian hai chái ở trong một mảnh vườn cây trái, giữa một xóm quê. Ngôi nhà có nhiều gian phụ làm buồng, bếp, kho lẫm…được gọi là nhà trên (để phân biệt với những gian kia là nhà dưới). Nhà trên làm nơi thờ phượng là chủ yếu: gian giữa đặt bàn thờ gia tiên, hai gian bên đặt giường nằm (chỉ dành cho đàn ông: ông chủ nhà và những anh con trai; phụ nữ không được phép lên nhà trên). Người ta thường chọn hướng cất nhà là hướng Đông - Nam hoặc Tây -  Nam  và cũng tránh hướng gió độc (gió tây, gió bấc, theo kinh nghiệm dân gian).
Nhiều gia đình đi gánh nước giếng làng, nhưng chẳng phải ít gia đình khơi giếng mà uống. Giếng khơi trong vườn nhà, chồng từ đáy lên mấy bộng đất nung để cho nước trong mát. Cô con gái trong nhà vẫn ngồi thềm giếng, múc nước gội đầu, thả hương bồ kết thơm xa…
Nhà nghiên cứu đồ cổ Vương Hồng Sển đã từng khen vẻ đẹp của nhà tranh và ông cho hay có cái nhà tranh đẹp, đến khiến có một anh công chức (thời Pháp thuộc) gặp rồi mê, ngỏ ý đem nhà ngói đổi… Mà không đổi được. Dân gian không hoàn toàn tin rằng hạnh phúc hôn nhân và gia đình là nhờ giàu có; mà vẫn lưu truyền câu nói: “Nhà tranh, vách đất, gáo nước lã và hai quả tim vàng” ý nói dẫu nghèo mà biết yêu nhau bằng cả trái tim yêu thương thì vẫn có hạnh phúc như thường. Người ta có ý thức phòng tránh gió bão, cho nên cất thấp nhà ở, dẫu biết khi vào nhà, vô ý đụng đầu.

Trong các làng quê Bình Định, giữa những nhà tranh vách đất, mọc lên mấy ngôi nhà lá mái, nhà ngói Tây.
Nhà lá mái là một công trình kiến trúc bề thế và rất đặc trưng Bình Định. Toàn bộ ngôi nhà đặt trên nền móng đá ong và một khung gỗ (danh mộc) với các hàng cột (hàng nhất, hàng nhì, hàng ba) và các cột -  kèo -  xiên -  trính… chịu lực, liên kết với nhau. Có những chủ nhân vì quá yêu nhà lá mái mà phải lặn lội lên rừng, tìm gỗ quý mua đem về cất nhà. Nhà tọa lạc giữa một khuôn viên, trước có sân rộng, tường rào cao, nhà ngõ bước lên tam cấp; sau có vườn cây lúc lỉu quả, khóm tre trúc lả ngọn. Nổi bật trong nhà lá mái lá nếp cổ. Trước nhà có bờ tường, nhà ngõ, hàng cau liên phòng, lê lựu trồng trong sân, hoa hồng tường vi nở nơi giọt tranh… Sau nhà có vườn rộng, ao sâu… Nội thất nhà là một công trình chạm trổ và là một kho chứa đồ cổ. Đà nhà, cột, kèo, xiên, trính… đều được chạm trổ chữ Phước hoặc chữ Thọ (theo lối chữ triện) ở các đầu cây. Cửa bàn khoa được chạm nổi hoặc chạm thủng; có những bộ cửa bàn khoa 4 tấm chạm thủng thành một bộ tứ bình: Mai – Lan – Cúc – Trúc hoặc Long  - Ly – Qui – Phụng. Những đồ phục vụ cho sinh hoạt, như tràng kỷ, rương xe, giường hộp… vừa chạm trổ vừa khảm xà cừ. Hoành phi liễn đối khảm xà cừ các câu chữ đã trở thành thi phú làm rung cảm hồn người và mang ý nghĩa giáo dục về lòng biết ơn Tổ tiên, về đạo lý Thánh hiền… Cái kho chứa đồ cổ trong nhà lá mái, còn phải kể: các đồ đồng (độc lư, chân đèn, hộp thau…) đồ mỏng (người Bình Định gọi đồ sứ Tàu – chén bát, tô, đĩa… là đồ mỏng) để thờ.
Khách quý đến chơi nhà được chủ nhân đón từ nhà ngõ, và buổi khách ra về, cũng tiễn tại nhà ngõ này.

Trước thời Tây sang, đã thấy có nhà xây tường, móng bằng đá ong, lợp mái ngói âm dương. Vật tư kết dính thời đó là vôi vữa, chứ chưa có xi măng. Tới khi Tây sang, người Tây xây công sở (Cơ quan, nhà ga, nhà giây thép, nhà thương, trường học ở tỉnh lỵ và các huyện ly… ) bằng gạch nung và xi măng. Từ đó, trong các làng quê, nhà gạch bắt đầu mọc lên. Có những ngôi nhà gạch to, đẹp với tường vôi trắng, cửa vòm, thềm cao, hè rộng, mái cao (không sợ gì bão to, gió lớn), nền xi măng hoặc nền gạch Bát Tràng. Lúc đầu, nông dân vẫn nói “tiếng Tây” về ngôi nhà này: Cái pla – phông (plafond: trần nhà), ô – vân (auvent: hiên nhà), bộ sa – lông (salon: bộ bàn ghế trong phòng khách), đi -  văng (divan: ván nằm)…Như một thời, người ta vẫn nói tiếng Tây về bóng đá: Nu (Nous: chúng tôi), manh (main: chạm tay), a - ri - e (arriere: hậu vệ), goal… Phối cảnh của nhà gạch thường là vườn xoài, mận sai trái, hàng cau vươn cao phất phơ khóm lá và một vòm trời xanh. Nhà sân rộng, lối đi êm, đến cuối tuần thì thường đón khách.
Dân miền Trung thường truyền khẩu câu: “Tiếng đồn Bình Định tốt nhà / Phú Yên tốt lúa, Khánh Hòa tốt trâu”. Có lẽ câu ca dao đã nói về những ngôi nhà lá mái, nhà ngói ở Bình Định đó.

Nhà công ở trong làng là các đình chùa, miếu mạo, chợ quê…Và cũng chắc, có ngôi trường làng nữa.
Kiến trúc đình, chùa, miếu mạo là những công trình kiến trúc cổ mang đậm nét tâm linh, tín ngưỡng lâu đời của người Việt.
Đình lập nên để thờ Thành hoàng. Mái đình lợp ngói âm dương, nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt (hoặc lưỡng long tranh châu), mặt tiền là một hàng cửa cuốn (hay cửa võng), cờ vuông trên cột cờ … Khách vào đình phải qua cổng tam quan, hàng trụ biểu, dừng chân trước bình phong rồi đi qua khoảng sân rộng mà vào đình…Thường trước đình có ao sen soi bóng cửa tam quan. Vẫn bóng dáng thầy lý, cụ tiên chỉ khăn áo chỉnh tề trước thềm, trong sân.
Kiến trúc Miễu gần giống như đình, nhưng nhỏ hơn nhiều. Xung quanh miễu có bờ thành (cắm miểng chai), cổng vào có nhà ngõ, trụ biểu, bình phong… Mặt tiền miễu thường xây chấn thủy, sẵn đó đắp tên miễu bằng chữ Hán (cũng có miễu đề chữ Quốc ngữ). Nếu đình là nhà chung của cả làng thì miếu là nhà chung của xóm để thờ các bộ hạ của các vị thần linh. Hầu hết các làng đều có miễu Thanh minh, nhiều làng có miễu Hà Bá, miễu Mục đồng ở bên bến sông, ở giữa đồng, vẫn nghi ngút khói hương.
Đến chùa. Thường thì đình xây dựng ở trung tâm làng, miễu ở giữa xóm. Nhưng chùa thì lập ở nơi phong cảnh đẹp, chỗ thanh lam u tịch. Nhiều chùa lập ở lưng đồi, như chùa Linh Phong ở Phù Cát, chùa Long Giáng (trong tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng). Phải chăng vì thế mà dân gian có từ “lên chùa”: “Lên chùa gặp Phật muốn tu / Về nhà thấy mẹ, công phu chuyên cần” (Ca dao). Kiến trúc chùa với những góc mái cong, nóc cao đắp hình chữ Vạn hoặc biểu tượng Chuyển pháp luân. Chùa có nhiều gian: Chánh điện, nhà Tổ, nhà khách, nhà chúng, nhà trù. Hai bên chánh điện có lầu chuông, lầu trống, sân chùa thường trồng cây đại, cây ngọc lan, góc vườn có giếng chùa thường ngọt trong (cho người dưới xóm lên gánh nước về pha trà – Nguyễn Tuân có tả trong sách Vang Bóng Một Thời)… Khách thập phương về chùa đông khi chùa có lễ Phật đản Rằm tháng Tư, giỗ Tổ, lễ Vu lan báo hiếu Rằm tháng bảy. Ngày thường, cảnh chùa vắng vẻ, nhiều bữa có người bổn đạo phát thiện tâm đến với người nghèo khó, bất hạnh, đến thỉnh sư Trụ trì cùng đi với mình…
Chợ quê lều quán đơn sơ: Mấy túp lều chợ bằng tranh tre. Cho nên, chợ thường nép bên cây cổ thụ: “Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ” (Thơ Đoàn Văn Cừ).  Chỉ có làng giàu (như làng Háo Lễ, thuộc xã Phước Hưng – Tuy Phước) mới xây ngôi chợ với trụ gạch, mái ngói. Chợ thường lập bên bến sông hoặc bên bến xe ngựa, cho thuận tiện việc đi lại. Chợ quê bán buôn nông thổ sản, họp mỗi tháng 6 phiên. Ngày thơ ở làng, tôi thích đi chợ Tết để xem cảnh chợ đông người và nhiều hàng hóa, thích nhất, được ngắm những tấm bức viết đại tự, treo ở dãy cột lều bày bán hàng mã.
Trường làng mái ngói, có từ 2 – 3 phòng học, thường nấp dưới bóng cây bàng cổ thụ (bởi thế, học trò trường làng thường có thú chơi nhặt quả bàng). Địa điểm xây trường thường ở một góc sân đình, cũng có nhiều làng mượn nhà hương hội (nhà họp của làng) để mở trường. Tôi có cái duyên cũng ngộ. Cả thời học Tiểu học, rồi Trung học (1945 – 1954) tôi đều ngồi học cùng chúng bạn trong các đình, miễu: Học Tiểu học (từ lớp Năm đến lớp Ba) ở trường Cơ bản Háo Trung trong Miễu Sở Ba của làng Háo Đức (Nhơn An – An Nhơn) học Tiểu học (2 năm Nhì, Nhất) ở trường Tiểu học Nhơn An trong đình làng Tân Dân (An Nhơn), học Trung học trong đình làng Hòa Bình (Nhơn Phong – An Nhơn). Cho đến khi mái đầu đã bạc, mỗi lần nhắc đến trường làng, nhiều người không khỏi nhớ mẹ mình xưa: “Tiếng trống mỗi lần vang dưới xóm / Mẹ tôi hay bảo, cố đi nhanh” (Thơ Khuyết danh).

Kiến trúc ở nông thôn ngày nay không còn giữ được mấy nét xưa: Cuộc tiến hóa đã không còn chỗ cho nhà tranh vách đất; nhà lá mái còn ít lắm mà cũng khó bảo tồn; nhà ngói mọc lên thay nhà tranh; nhà mái bằng, nhà hộp hiện đại mọc lên thay nhà ngói Tây trước kia… Ông nông dân ngày nay lái máy cày, lái xe nông nghiệp, cô thôn nữ ngày nay đứng trước sân nhà mái bằng, nói chuyện điện thoại di động (chứ không cầm liềm cắt từ nhà tranh đi ra, trước khi khép cánh cửa liếp, như hồi xưa)…Người ta đang muốn phục hồi cái cổng làng xây gạch cù cũ kỹ có cái cộ trâu chở rơm chui qua, nhưng đã không thành. Vì đã mọc lên cái cổng làng bê – tông, sơn nhiều màu và chiếc xe tải nặng đi qua.