.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012


Ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê

Trần Đình Sử
Đọc thơ Bích Khê không ít người đã có nhận xét về yếu tố thân thể con người, đặc biệt là thân thể giai nhân và thân thể chủ thể trữ tình làm thành một nét đậm, nét chủ âm trong thơ ông. Đó là hiện tuợng độc đáo hợp quy luật phát triển của  tư duy thơ hiện đại.
Nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của trực giác, mà trực giác luôn luôn gắn liền với thân thể. Không có trực giác bên ngoài thân thể. Thân thể là phạm trù quan trọng của triết học về con người, đặc biệt là triết học hiện tượng học. Nhà hiện tượng học người Pháp Maurice Merleau- Ponty trong sách Hiện tượng học tri giác đã nói: “Thân thể là phương tiện chung để chúng ta chiếm hữu thế giới.” Bản chất của thân thể là một “không gian biểu đạt”. Tính không gian của thân thể là điều kiện để hình thành thế giới ý nghĩa của con người. Thân thể cũng là một phạm trù của xã hội học về con người. John Oneill trong sách Năm hình thái thân thể đã nói đến thân thể vũ trụ, thân thể chính trị, thân thể giao tiếp, thân thể tiêu dùng, thân thể y học…Thân thể tự nó là một ngôn ngữ giao tiếp. Khi thân thể không đủ để giao tiếp thì con người sáng tạo ra một thế giới văn hóa xung quanh. Đó là các thứ trang phục, vật dụng, trang sức, thời trang…nhằm mở rộng khả năng biểu đạt của thân thể. Trong đời sống, thân thể (đầu, tóc, mình, tay, cổ, mắt, mũi, miệng, răng, lòng, ruột, trái tim, gan, mật, cơ quan sinh dục và tất cả các thứ phế thải, bỏ đi) cùng mọi hành động, động tác, cảm giác thân thể ( đi, chạy, ăn, cắn, hôn, nuốt, ngậm, đau, rát, đắng…) đều có thể là ngôn ngữ giao tiếp của con người. Ngoài thân thể trực tiếp, toàn thể vũ trụ, thiên nhiên, đồ vật cũng trở thành thân thể gián tiếp của con người và cũng trở thành ngôn ngữ giao tiếp thông qua các ẩn dụ, nhân hoá… Đối với văn học thân thể là thân thể sống, nó không giản đơn là thân xác, xác thịt. Xem thân thể chỉ là xác thịt có nghĩa là thu hẹp nó, tầm thường hoá nó. Trong con người sống thân thể thấm nhuần tâm hồn. Chỉ xác thịt không phải là thân thể người, tính dục cũng không phải thân thể người. Chỉ có cảm xúc tâm hồn mới biến thân thể thành ngôn ngữ.
Trong thơ ca thời trung đại, sự nhị phân thân thể với tinh thần dẫn đến đề cao ngôn ngữ tinh thần, đạo đức, thân thể con người bị hi sinh, bị chà đạp, kiêng kị, nhất là thân thể phụ nữ. Có nhiều khi thân thể đẹp hẳn hoi vẫn bị coi là cái phần thô, xấu, dung tục, cần phải che đậy, dù là che đậy bằng những vật cao quí: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.” (Nguyễn Du). Nhiều trường hợp khác nguỵ trang bằng các ẩn dụ kín đáo: “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu”. “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch đào nguyên nước chửa thông” (Hồ Xuân Hương)…
Thơ hiện đại với sự xác lập không gian cá nhân, ý thức cá tính đã đổi mới ngôn ngữ thân thể trong thơ. Với quan niệm thành thực những điều bí mật riêng tư cũng đem ra biểu hiện. Thân thể không còn là phạm trù của phàm tục, tội lỗi phải che giấu mà được biểu hiện tự nhiên, kiêu hãnh. Có lúc thân thể trở thành ngôn ngữ của đoạ đày, trừng phạt, có lúc nó trở thành ngôn ngữ phản kháng, cự tuyệt và hi sinh, nhưng phần nhiều trở thành ngôn ngữ của sự thân mật, thức tỉnh, giải phóng và của vẻ đẹp trần gian. Khi Xuân Diệu viết: Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài! Những cánh tay, hãy quấn riết đôi vai! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt! Hãy khăng khít những cặp môigắn chặt…Hoặc khi Chế Lan Viên viết: Ta sẽ nhịp khớp xương lên đỉnh sọ, Ta sẽ ca những giọng của Hồn Điên, Để máu cạn, hồn tàn, tim tan vỡ, Để trôi đi ngày tháng nặng ưu phiền!…Hoặc khi Huy Cận viết: Người đã cho những bàn tay hoa nở, Những cây chân, chồi mạnh búp tơ măng, Người thu góp gió mây trong miệng thở, Nơi mắt ngời, Người gửi ánh sao trăng; Mắt sâu sáng đèn thắp soi vũ trụ, Và tai rền thu cất nhạc không gian, Và tơ tóc ướp vạn mùa hương ủ, Và ngực vang ngân điệu nhịp hoàn toàn…thì có thể nói một ngôn ngữ thân thể mới đã xuất hiện trong thơ Việt Nam hiện đại với nhiều khuynh hướng mới lạ chưa từng có.
Trong thơ mới có lẽ Bích Khê là nhà thơ có ngôn ngữ thân thể táo bạo nhất, mới mẻ nhất. Ngôn ngữ thân thể trong thơ nói chung có thể tạm chia làm bốn phạm vi. Những phần ngoại lộ như da, môi, mặt, mắt, tóc, mi, tay, chân, nước mắt…; Những phần thường che kín như ngực, bụng, bộ phận kín đáo…; Những phần cảm giác thầm kín như buồn, đau, tê mê, hay động tác nội cảm của tâm hồn – cái thân thể nội tại chỉ tự mình cảm thấy, nhìn, nghe, xin, uống, cắn, hôn…; Những phần bí ẩn trong thân thể, chỉ thấy khi  nghĩ đến sự sống hay sự thương tổn, cái chết như tim, máu, xương, óc, sọ, tuỷ…Tất cả các phần thân thể trong thơ Bích Khê đều trở thành ngôn ngữ của đam mê, khoái lạc, của mơ mộng, ước ao, của cái đẹp trong trắng và vĩnh viễn. Đó không phải là ngôn ngữ duy nhất vì còn có ngôn ngữ vũ trụ, ngôn ngữ thiên nhiên, song đó là phần ngôn ngữ đặc sắc nhất.
Thơ Bích Khê là thơ về cái đẹp, người đẹp. Ta bắt gặp trong thơ ông những tiên nương, tiên nga, ngọc nữ, thuyền quyên, Hằng Nga, Ngu Cơ, Quý Phi, Xuân Hương, Ngọc Kiều, nhìn thấy những đào nguyên, ngọc tuyền, dao động, đào động, cung Quảng… Hoa trái trong thơ ông cũng mang nữ tính: Quả măng cụt, Đồ mi hoa (một thứ cây leo có hoa trắng như tuyết và có mùi thơm). Nhạc trong thơ Bích Khê thường là Nghê thường, Lạc mai hoa, Phụng cầu hoàng, những khúc nhạc tình đắm đuối. Không phải ngẫu nhiên mà Bích Khê viết: “Ngừng hơi thở…ta nép trong bóng lá, Để vần thơ theo nhịp điệu thuyền quyên”(Đồ mi hoa). Đó là những vần thơ theo nhịp điệu người đẹp với thiên tính nữ. Thơ ông là thơ về cõi mộng, cõi tiên đầy âm nhạc, thi ca, màu sắc, hương thơm và giao tiếp thân thể. Đẹp và mộng là nhũng nét rất tiêu biểu cho thơ lãng mạn. Đó là những giấc mộng siêu thoát rất thanh, rất xanh, đầy thi vị. Có một thời chúng ta xem mọi mộng mơ, siêu thoát chỉ là thoát li thực tế mà không thấy đó là không gian tinh thần để giải phóng tâm hồn. Những giấc mộng cho phép nhà thơ phác hoạ nhiều chân dung người đẹp mang tính chất tượng trưng. Thơ Bích Khê có xu hướng “lột truồng” mọi che đậy làm cho thân thể trong thơ xuất hiện với tính chất tự nhiên. Hai chữ “lột truồng” phải chăng cũng có nghĩa là lột bỏ những ngôn từ lá nho che đậy? Loã thể trong nghệ thuật thường tượng trưng cho sự thuần khiết, tự do, sự thiêng liêng, chân lí và cả sự yếu đuối với ít nhiều nhục dục. Loã thể đánh dấu sự rời xa của thơ ca từ vũ trụ bao la, xã hội rộng lớn để trở về với sự chiêm nghiệm thân thể người. Bích Khê đã đem lại một bữa tiệc của thân thể sống động, non tơ, kiều diễm:
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?
 Đâu hang báu cho ta phải khóc?
-Trên môi son ta liếc lưỡi gươm mềm!
(Mộng cầm ca)
Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!
…Một bàn chân ve vuốt một bàn chân!
Mát làm sao! Mát rợn cả châu thân.
Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực.
 Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bực
 Hồn tôi ôm gót ngọc lắng âm thanh…
                                               (Bàn chân)
Bàn chân người, tuy là phần ngoại lộ, theo phân tâm học vưà tượng trưng cho sức mạnh nam tính, vừa tượng trưng cho dục tính nam và nữ, nhưng ở đây nó là bộ phận của một thân thể – nhạc cụ lắng lọc những âm thanh và cảm xúc thẩm mĩ:
Những mặt tươi, nhan sắc đẹp như trăng
Và sắc lẻm như thanh gươm vấy máu;
Những đôi mắt kho tàng muôn châu baú
Có những hàng đũa ngọc gắp hương yêu;
Những môi son phản ánh một trời chiều       
 -Một trời chiều mà muôn hoa nín thở;
 Những vú nõn: đồi cong thon, nho nhỏ,
 Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
Sắc đẹp)
Thân thể hiện ra trong tất cả vẻ đẹp tự nhiên đầy cám dỗ. Nhưng thân thể cũng chứa sức mạnh. Biểu tượng thanh gươm sắc lẻm vừa tượng trưng cho sức sống, sức mạnh gạt bỏ mọi trở ngại, vừa là tượng trưng sức phá hoại. Tính tượng trưng đưa ngôn ngữ thân thể rời xa nhục thể để đi vào thế giới ý nghĩa cao siêu.
Loã thể có khi xuất hiện với “vẻ đẹp của khiêu dâm” thì nhà thơ cực độ cuồng si cũng biết tự hãm mình lại với xúc động tinh thần, nhưng kẻ hãm lại là chủ thể lí trí, còn thân thể vẫn không giấu được cánh hồn si:
 Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một toà hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si
Ồ hai tay rơi chen ngọc lưu li;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng! Cho tôi nàng! Tất cả
(Tranh loã thể)
Trong thơ trữ tình luôn có sự khác biệt giữa cảm xúc thân thể và sự phán đoán , biểu đạt của chủ thể lí trí, nhưng phần độc đáo vẫn thuộc về thân thể. Tranh loã thể thể hiện sự chiêm ngưỡng, đắm say trước vẻ đẹp sống động, khêu gợi vĩnh viễn của con người. Và nhà thơ lấy đó để đối lập với vẻ đẹp giá lạnh, lơ đãng, quý phái mà thiếu hấp lực như làm bằng đá, bằng sắt, xa lạ với con người. Ông đem vẻ đẹp trong trắng  mà hoá giải quan niệm khiêu dâm truyền thống.  Cái gọi là “dâm” trong diễn ngôn (thơ văn, lời nói hàng ngày), theo M. Foucault, chỉ là quy phạm diễn đạt, là sản phẩm của những tập tục, kiêng kị mà thời gian cũng làm cho đổi thay. Bích Khê có thể là nhà thơ muốn bước qua cấm kị. Trong bài thơ Mộng lạông đã hô lên:
Ôi đi! đoàn tiên lột khoả thân
Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần.
Mộng lạ)
Có thể xem đó là một câu thơ tuyên ngôn về ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê. Quan niệm truyền thống đã lấy cái dâm mà che mất cái đẹp, nhà thơ muốn qua cái dâm nhìn ra cái đẹp trần gian. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Xuân Hương, nhà thơ nữ truyền thống nổi tiếng với định luận “dâm và tục” một thời lại là nàng tiên được nói đến nhiều lần trong thơ Bích Khê:
Ô! Nàng Xuân Hương ngực để trần,
Ngâm bài “Vấn nguyệt” tiếng trong ngần
Nhìn xuống nhân gian cười như điên.
(Nghê thường)
Mộng trắng phau phau vót cung nga:
  Xuân Hương người ngọc máu say ngà!
  Nhấn dây tơ loạn buồn lơi lả
  Đờn phất hương trăng nẩy điệu ra
(Mộng)
Nhưng Xuân Hương của Bích Khê đồng thời cũng ở địa ngục:
Ừ, tội chi ta không vào địa ngục
Đặng xin nốt ngọc oan (uyên?) ương thề thốt,
Giam chung thân mà sáng quá thiên đường;
Đặng ngủ nhờ một đêm với Xuân Hương
(Ăn mày)
Có thể nói Bích Khê là nhà thơ hiện đại đầu tiên biện hộ cho Xuân Hương như một nhân cách đẹp. Sự đồng nhất địa ngục với thiên đường ở đây thật đặc biệt. Ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê là vũ điệu của các chủ đề đẹp, dâm, thơ, mộng, say mê, điên cuồng, âm nhạc, tình ái, khoái lạc, những trạng thái hợp thành quan niệm thơ phi lí tính của nhà thơ. Đối diện với mĩ nhân loã thể không phải là một nam tính hiếu dâm, mà là một tâm hồn nghệ sĩ rộng mở. Trong thơ Bích Khê thân thể chưa bao giờ là phương tiện của làm tình, lên giường, vào toa lét, mại dâm, thủ dâm…Marquez trong bài Tình dục và văn minh có nói: “Cả thân thể đều là đối tuợng chăm chú của libiđô, là cái để hưởng thụ, là công cụ của khoái lạc”. Thân thể trong thơ Bích Khê không hoàn toàn là như thế, bởi thân thể trong thơ Bích Khê thấm đượm hồn, cảm xúc thân thể đầy mĩ cảm, và chưa quan tâm “nửa thân dưới” của con người như một số nhà hậu hiện đại .
Con người là nút buộc vĩnh viễn không thể cởi ra được giữa văn hoá và sinh vật.  S. Freud từng nói: “con người là một thứ địa ngục”. Địa ngục là biểu tượng của trừng phạt, đày ải, của khủng khiếp và ghê sợ. Con người không giản đơn là thiện, cũng không giản đơn là ác, nó luôn luôn vật lộn với xác thịt để đi tới sự phong phú của tâm hồn. Trong thơ Bích Khê thân thể là cội nguồn cám dỗ và khoái lạc mà tột cùng hưởng thụ thẩm mĩ đầy nhạc và hương là “bưa”, đã nư”, “no ứ”, “đê mê”, “miên man”, “ngất ngư”…Cái chết là cực điểm của khoái lạc, là trạng thái cơ thể được tan ra trong vũ trụ, nhân gian và trở thành vĩnh viễn:
Anh đừng khiếp – Lòng tôi mang địa ngục.
Mình nóng hổi và hơi ran giữa ngực
Tôi mê man ghì lấy một giai nhân
Hồn say sưa đương cố lột cho trần
Cả sắc đẹp ngời ra như lưỡi kiếm
Trong phút lạ! – mơ hồ xương sọ vỡ.
(Một cõi trời)
Thơ bay về tắm mát âm ty
Xác tôi chết lạnh trôi đi  
Lấy ai siêu độ từ bi;
Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng!
(Thơ bay)
Người nghệ sĩ lòng buồn hơn cổ độ
Khóc ngây thơ, mà tóc bạc không hay
Lòng chết đi nhưng máu vẫn cuồng say 
(Ngây thơ)
Đối với Bích Khê địa ngục, cái chết là giới hạn cuối cùng để lại thăng hoa, trở về với sự sống tâm hồn mà vẫn không hết cuồng say.
Bài thơ Sọ người thể hiện quan niệm nhà thơ về cái chết. Sọ người thông thường là tượng trưng cho cái chết. Chế Lan Viên cũng có bài thơ Cái sọ người, trong đó nhà thơ muốn tìm lại và tiếp tục sự sống đã chấm dứt của nó. Nhưng ở bài thơ của Bich Khê cái sọ người lại là biểu tượng của sự sống lộng lẫy, tươi đẹp:
Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! Ôi chen ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
Ôi thần tình người chứa một trời thương.
Có thơ, có đào , có ngọc, có trăng, có tình thương là có sự sống. Cái thực sự chết là trái tim thiếu tình người, biến thành sắt thành đá. Trong thơ Bích Khê thường có sự đối lập sự sống với vùng tang, xương ma, nấm mộ…Nhà thơ đã so Ngọc Kiều với Sọ người như sau:
Ôi! Sọ người! Sọ người! – Gương phép tắc!
Ngọc Kiều ơi ghé lại ngắm dung nhan.
Ngọc Kiều ơi ta chợp thấy tim nàng,
Tim nàng bằng đá, tim nàng bằng sắt,
Ngọc Kiều ơi, hơi độc sắp tràn lan!
Người ngất ngư – Chết trong muôn thế kỉ,
Chạy điên rồ đứng sựng giữa xương ma,
Người là ai? Người có phải là ta?
(Sọ người)
Cái chết là sự sống đã lên đến cực độ và ở đó không có cái chết. Không phải vô cớ mà trong bài thơ tuyệt mệnh để ghi trên bia mộ nhà thơ viết:
Thân bệnh, ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần, sông lạnh ánh sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế,
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.
Ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê mang tính chất  lưỡng tính, vừa là thân thể, vừa tâm hồn, là sự thể nghiệm tâm hồn thân thể hoá, là sự cảm nhận sâu sắc của tồn tại con người. Bích Khê đã vượt qua sự giải bày, thổ lộ nỗi niềm mang tính chất lãng mạn để dấn sâu vào những thể nghiệm vừa khoái lạc, vừa đau đớn của kiếp người mà say, điên, dâm, mộng… chỉ là trạng thái tâm lí cần thiết để nhà thơ mở ra thế giới nghệ thuật của mình và siêu thăng trên cõi tục:
Ôi! say khướt mới dào muôn ý tứ;
Ôi! điên rồ mới ngớp ánh chiêm bao;
Ôi! dâm cuồng mới biết giá trăng sao.
-Yêu bằng mộng là mơ tìm sáng láng
Ngôn ngữ thân thể trong thơ là một vấn đề không nhỏ mà trên đây chỉ là một vài suy nghĩ sơ lược bước đầu.
TRẦN QUANG LỘC
                              Bến đò xưa
               hoang vắng


                                                              Truyện ngắn
      
  - Đò ơi ! Đò ... ò ... ò ...
            Đứng bên nầy sông nhìn sang bến đò năm cũ nhạt nhòa sương khói, tôi cất tiếng gọi đò. Âm thanh "đò" kéo dài vang vọng trên dòng sông gợn sóng rồi lịm tắt trong buổi chiều cuối năm se lạnh.
  - Đò ơi !
   Tôi định lấy giọng gọi tiếp thì một người đàn ông đang đứng trên bãi dâu cạnh đó, lên tiếng :
            - Đò giang đâu nữa mà gọi. Chú em muốn sang sông cứ đi thêm quãng nữa sẽ có cầu. Bến đò đã bãi bỏ lâu rồi.
            Theo sự chỉ dẫn của người đàn ông tốt bụng, tôi đi dọc triền sông một đỗi nữa gặp chiếc cầu xi măng khỏe khoắn níu chặt đôi bờ thưa thớt mấy bụi tre già đang run rẩy và những khóm cừa tàu soi mình trên nước biếc.
            Sang bên kia sông, tôi hết sức ngỡ ngàng, làng xóm bây giờ rất khác xưa, suýt nữa tôi không còn nhận ra.
 


            Con đường liên thôn liên xã đỏ quạch màu đất bazan với hàng trụ bằng tre khẳng khiu ruỗng mục móc đầy dây dẫn điện bùng nhùng rối rắm xẻ dọc làng Nhơn Hạnh ra làm hai nửa, nửa nào cũng xám xịt trống huếch, thiếu hẳn màu xanh tươi mát của vườn cây, của lũy tre làng đã bị triệt hạ để lấy chỗ xây nhà bán đất. Dọc theo con đường mới mở còn lồi lõm ổ gà, sống trâu là hai dãy nhà lợp tôn móc ngói; lấn ra, thụt vào; mới cũ, to nhỏ, cao thấp khác nhau; nhớp nháp bụi đường. Thị tứ mới toanh, nghèo nàn, nham nhở nhưng lúc nào cũng đầy ắp những âm thanh ồn ào náo nhiệt tỏa ra từ các quán cà phê, quán nhậu bình dân, hàng trò chơi điện tử ...
           
Giữa buổi chiều quê ồn ào sôi động bởi những âm thanh của chốn thị thành, bỗng có tiếng võng đưa kẽo kẹt với lời ru khắc khoải nghe xa vắng mơ hồ như từ trong thẳm sâu quá khứ.
            Làng Nhơn Hạnh bình yên, êm ả đã bị làn sóng văn minh đẩy lùi vào quên lãng !
            Quê tôi miền trung du. Làng Nhơn Hạnh nằm dọc dòng Kôn xanh biếc, tuy là quê cô nhưng với tôi có nhiều kỷ niệm.
            Tuổi thơ của tôi không được may mắn như bạn bè cùng trang lứa. Năm bốn tuổi, mẹ mất vì căn bệnh hiểm nghèo khi tuổi đời còn rất trẻ. Cha tôi sống trong cảnh nghèo túng quanh năm trên cái làng nhỏ của một huyện miền trung du bốn bề đất đai khô cằn sỏi đá và cứ mỗi hoàng hôn bảng lảng sương mù. Mặc dù vậy, ba tôi vẫn quyết tâm nuôi tôi ăn học để sau này có cuộc sống khá hơn. Năm tôi thi đỗ bằng tiểu học cũng là năm ba tôi sang Mỹ theo diện HO. Cô tôi từ miền xuôi vượt hàng trăm cây số lên đón tôi về nuôi dưỡng. Ngày theo cô về xuôi, tôi không tránh khỏi luyến tiếc bùi ngùi vì phải xa làng, xa quê, xa mảnh đất trung du tuy nghèo nhưng ở đó, tôi đã trải qua thời thơ ấu.
           
 Cô tôi sống đạm bạc trong căn nhà tôn vách ván cạnh bến đò Trường Thi nhộn nhịp khách thương hồ, mặt hướng về dòng sông Kôn xanh biếc êm đềm với những con đò dọc, đò ngang sớm chiều khỏa nước. Nghe tin cô tôi vừa đón về một đứa cháu ruột, bạn bè hàng xóm đến chúc mừng thăm hỏi. Ai cũng bảo tôi thông minh, ngộ nghĩnh, rắn chắc, là chỗ dựa của cô tôi lúc tuổi già sức yếu. Cô tôi chỉ cười, không nói. Còn tôi, cứ trả lời nhát gừng mỗi khi có ai hỏi đến.
           
 Mấy tuần lễ đầu, tôi rất buồn vì lạ người lạ cảnh, vì nỗi nhớ cồn cào, da diết. Những buổi chiều, tôi thường ra ngồi bên quãng sông vắng dõi theo bóng chim chao liệng trên dòng nước rực đỏ ánh hoàng hôn. Đêm, chới với, đắm chìm trong hoài niệm. Mỗi lần nghe tiếng gọi đò văng vẳng giữa sương khuya từ phía bên kia sông vọng lại, tôi càng nhớ quê, nhớ ba tôi da diết. Cô tôi vẫn nhẫn nại ngồi cạnh tôi phe phẩy chiếc quạt lá dừa vỗ về an ủi bằng giọng buồn rười rượi như từ trong sâu thẳm nỗi khổ đau : "Con người ai cũng có số phận riêng. Phải biết vượt qua số phận bằng nghị lực của chính mình con ạ ! Đừng buồn ! Tất cả rồi sẽ qua đi". Tôi không hiểu gì lời cô nói nhưng tôi yêu quí cô biết ngần nào.
           
Hồi ấy, cô rất chiều tôi, mỗi lần sang bên kia sông mua hàng họ về bán, cô thường đưa tôi theo. Có lần, ngồi trên chuyến đò sang sông, tôi hỏi cô :
            - Tại sao người ta gọi là bến đò Trường Thi hả cô ?
            Như một giáo viên dạy sử, cô giảng giải cặn kẽ:
            - Dưới triều nhà Nguyễn, phía bên nầy sông có trường thi Hương, cung cấp hàng trăm cử nhân tú tài cho các tỉnh miền Nam Trung bộ. Cứ ba năm tổ chức một kỳ thi Hương. Gần đến ngày thi, sĩ tử các nơi mang lều chõng, nghiên bút đổ về đây đông như trẩy hội. Bà con trong vùng dựng lều quán bán hàng cơm, giấy bút dọc hai bên các ngả đường. Đò ngang qua lại tấp nập trên dòng sông Kôn phục vụ sĩ tử và các quan giám khảo ở Kinh đô vào. Từ đó, bến đò mang tên Trường Thi. Gần bảy thập kỷ trường thi tồn tại và trên hai mươi kỳ thi Hương được tổ chức, phần lớn thủ khoa thuộc về tay sĩ tử Bình Định. Vì vậy, ở đây có câu ca còn truyền tụng :
                          Uổng công các tỉnh đường xa
                 Để cho Bình Định thủ khoa nhiều kỳ.
            Ông nội con cũng đậu đầu cử nhân kỳ thi Hương cuối cùng. Mãi đến khi việc học chữ Hán bị bãi bỏ, trường thi hoang phế dần rồi bị giặc Pháp đập phá, trường thi chỉ còn là những đống đất đá làm chứng tích. Bến đò Trường Thi vẫn tồn tại và là nguồn cảm hứng cho các thi nhân. Bài thơ Bến My Lăng nổi tiếng của nhà thơ Yến Lan ra đời cũng từ bến đò đầy gợi hứng nầy. Như chợt nhớ ra tôi chỉ là đứa bé vừa học xong tiểu học, cô cầm tay tôi, dặn dò - Con ráng học để sau này đỗ đạt như nội con ngày xưa.
            Thời son trẻ, cô dượng tôi sống rất hạnh phúc trên làng Nhơn Hạnh nằm dọc dòng Kôn xanh. Cô mở quán trên bến Trường Thi phục vụ khách thương hồ. Dượng tôi vừa dạy học vừa bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Người con trai duy nhất của cô dượng đang học cấp ba.
            Rồi chiến tranh diễn ra ác liệt trên quê hương cô dượng, khói lửa ngút trời, đạn bom xới tung đường thôn ngõ xóm. Dượng tôi mất vào một chiều giông gió bên dòng sông Kôn trong trận càn quét tàn bạo của địch. Bốn năm sau, người con trai của cô dượng cũng hy sinh trên mặt trận Tây nguyên giữa mùa hè năm 72 rực lửa. Sự ra đi của đứa con trai yêu quí đã làm cho mái tóc cô bạc trắng, tinh thần suy sụp mặc dù lúc ấy tuổi chưa đến bốn mươi. Ngày toàn thắng, cả nước vang khúc khải hoàn, cô tiếp tục thân cò lặn lội ven bến sông xưa.
           
 Rồi tất cả cũng qua đi. Nỗi buồn của tôi đã nguôi dần theo tình thương của cô, theo dòng Kôn êm đềm với những chuyến đò ngang cần mẫn nối liền hai bờ lau lách. Làng Nhơn Hạnh êm ả chan chứa tình người giúp tôi tìm lại lứa tuổi hồn nhiên mà số phận đã cuốn trôi.
           
Đầu năm học mới, cô đưa tôi vào học lớp sáu, cùng trường với chị Thưa. Chị Thưa ở cách nhà cô tôi một thửa vườn rộng. Ba chị làm y tế xã, mẹ mở hiệu may trên phố huyện. Tuổi thơ của chị là chuỗi ngày tràn đầy hạnh phúc. Tuy lớn hơn tôi năm tuổi nhưng chị vẫn đang theo học lớp 8 trường làng. Ở vùng quê, trẻ con học muộn là chuyện thường. Tính chị Thưa vui vẻ hồn nhiên. Vì vậy, mới gặp chị lần đầu mà tôi đã cảm mến. Còn chị, rất thương tôi sớm mang thân phận nghèo, côi cút. Chị thường xưng hô "chị em" với tôi rất thân mật. Tôi và chị Thưa học cùng buổi nên sáng nào chị cũng ghé lại rủ tôi đi học. Tan trường, cùng về. Thường những buổi tối, chị hay đến nhà tôi chỉ hộ mấy bài toán khó rồi nói chuyện với cô tôi trước lúc ra về, hoặc rủ tôi đi xem hát mỗi khi có đoàn cải lương nào đó ở Sài Gòn ra diễn trên nhà văn hóa xã. Những ngày nghỉ học, tôi cùng chị Thưa lên khu đồi sau lưng nhà chị hái sim chín và nhặt củi khô đem về đun bếp. Có hôm, cùng ra tận quãng sông vắng đợi con nước ròng, bày trơ cát nhặt những con hàu con hến. Thi thoảng, những kỳ lễ tết, cô đưa chúng tôi lên thành phố Qui Nhơn ngắm biển, mua hàng. Từ ngày quen thân chị Thưa, tôi vơi bớt nỗi buồn, việc học cũng có chiều hướng tiến bộ rõ rệt. Tôi quí chị Thưa lắm. Vắng chị thấy nhớ.
           
Theo thông lệ, đầu tháng ba làng Nhơn Hạnh mở hội, người các nơi đổ về tưng bừng nhộn nhịp. Mới nửa chiều mà trống chầu đã nổi lên giòn giã, thôi thúc từ phía sân đình vọng lại. Hôm ấy, tôi đi học về đến nhà trời đã nhập nhoạng. Cơm nước xong xuôi, tôi háo hức đến rủ chị Thưa cùng dự hội làng. Dưới ánh trăng thượng tuần treo lơ lửng tận góc trời xa, chị Thưa nắm chặt tay tôi đi hết con đường làng rợp bóng rồi băng tắt qua mấy thửa ruộng dưa để kịp xem đoạn đầu vở tuồng "Đổng Trác hí Điêu Thuyền", vở tuồng Tàu mà cô tôi khen hay lắm. Đến một khoảng vắng, tôi bỗng kêu thét lên "ma" rồi quay lại ôm cứng lấy thân thể tròn trịa săn chắc, ấp mặt vào bộ ngực no tròn đầy gợi cảm của chị, thở dồn. Chị Thưa vòng tay âu yếm siết chặt lấy tôi nhận chìm trong hơi thở dịu ngọt dồn dập, gấp gáp của lồng ngực phập phồng rung rẩy, thoảng chút hương bưởi hương chanh tỏa ra từ mái tóc dài óng mượt của chị để rồi chỉ trog khoảnh khắc, nỗi sợ hãi tiêu tan, lòng tôi rộn lên cảm giác ngất ngây tê dại. Bất chợt, như bừng tỉnh cơn mê, chị khẽ đẩy tôi ra thở dài thảng thốt, cất giọng hổn hển :
            - Bù nhìn giữ dưa đấy em !
            Tôi ngơ ngác nhìn chị rồi lặng lẽ đi vào hội làng ...
           
Sau đêm hội làng không bao lâu thì ba tôi về làm thủ tục bảo lãnh cô cháu tôi sang Mỹ. Cô tôi dứt khoát không chịu rời bỏ quê hương xứ sở, mồ mả ông bà. Ba tôi cố thuyết phục nhưng vẫn không lay chuyển nổi ý chí của cô tôi. Riêng tôi, rất yêu cô, yêu da diết làng quê Nhơn Hạnh, yêu bến Trường Thi với những chuyến đò ngang ngày đêm cần mẫn nối lại đôi bờ, nhưng không phải vì vậy mà làm đảo lộn mọi lo toan tính toán của ba tôi.
           
 Trước hôm ra đi, tôi tìm chị Thưa để chào từ biệt. Tìm mãi rồi cũng gặp chị đứng lặng lẽ trên quãng sông vắng, mắt buồn thăm thẳm hướng về chuyến đò chiều khỏa nước trên dòng sông đỏ rực ráng hồng. Tôi khẽ khàng bước đến cạnh chị, giọng bùi ngùi :
            - Chị Thưa, sáng mai em đi ...
            Không lên tiếng cũng không ngoảnh lại nhìn tôi, chị bỗng đưa tay ôm mặt nấc nghẹn, bờ vai run rẩy theo nhịp sóng lòng dâng cuộn ... Lòng tôi cũng se lại. Bất chợt, như một cơn gió giật, chị quay lại ôm chầm lấy tôi, hôn tới tấp lên tóc lên cổ nhạt nhòa nước mắt rồi vụt chạy qua bãi dâu xanh ngắt, lồng lộng gió chiều.
            Đêm ấy, tôi cứ thao thức, trăn trở. Trước giờ phút ly hương sao mà buồn da diết !
           
 Tảng sáng hôm sau, chuyến đò đầu tiên trong ngày chỉ có ba con tôi và một nỗi buồn ly quê lặng lẽ rời xa bến. Trước mặt tôi, làng Nhơn Hạnh như bồng bềnh chao đảo trong sương sớm.
            Bất chấp con đò chòng chành, tôi bỗng đứng vụt lên gọi lớn :
            - Chị Thưa ! Chị Thưa ơi !
            Trên bến Trường Thi, chị Thưa đang đứng vẫy tay chào từ biệt. Con đò vô tâm cứ lặng lẽ xa bờ. Nhìn hình ảnh chị Thưa khép dần rồi khuất hẳn trong làn sương tím, lòng tôi cứ thấy rưng rưng.
            Sau mười năm ăn học nước ngoài, tôi đã trở thành nhà khoa học có tên tuổi đang xin về Việt Nam công tác theo nguyện vọng của ba tôi. Ngày trở lại quê cô như một kẻ lãng du quay về làng cũ lần tìm kỷ niệm của một thời dĩ vãng.
            Bước vào cửa hiệu uốn tóc, tôi hỏi một cô gái còn non choẹt, mặc quần đùi bó sát, phô diễn cặp giò mốc thếch đang ngồi tự dũa gọt móng tay :
            - Em làm ơn chỉ giúp anh nhà chị Thưa.
            Cô bé giương mắt nhìn tôi lắc đầu :
            - Ở đây không có ai tên Thưa !
            Một giọng đàn bà từ phía sau tấm vải màn cũ kỹ đầy cáu bẩn :
            - Thưa là Ngọc Ánh đấy con.
            Cô bé "à" lên một tiếng rồi đứng lên bước ra khỏi cửa, sốt sắng :
            - Đó, cái nhà hai mê ở tận đầu hồi đó. Cô bé nheo mắt nhìn tôi ra vẻ giễu cợt - Anh muốn hát phải không ?
           
 Đến nhà chị Thưa, thấy có tấm bảng nhỏ treo ngay ngắn trước cửa : "Phòng Karaoke vi tính". Tôi hồi hộp đưa tay gõ cửa khẽ khàng rồi chờ đợi nỗi vui mừng ập đến. Cánh cửa bật mở, âm thanh xập xình với giọng hát ồm ồm tuôn ra cùng lúc với cô gái xinh xắn hớt tóc tém, quần áo khêu gợi, mặt dày son phấn nhìn tôi dò xét. Trời ơi ! Chị Thưa của tôi đây sao? Phép lạ nào đã thay đổi chị Thưa xinh đẹp hiền lành nhân hậu thành cô Ngọc Ánh mắt xanh mỏ đỏ, tay chân đầy móng vuốt ?! Trong lúc tôi đang hoang mang dao động thì chị vẫn vô tình nhoẻn miệng cười duyên như chị thường làm chiều khách :
            - Anh thông cảm, em đang tiếp các sếp trên huyện.
            Tôi định cất tiếng gọi chị thì chị tỏ lời an ủi :
            - Đừng buồn ! Tối trở lại em sẽ lấy giá mềm hơn.
          
  Nói xong, cánh cửa khép kín, chị khuất hẳn sau lớp kính mờ để lại trong tôi một nỗi buồn thăm thẳm.
            Rời nhà chị Thưa, tôi lầm lũi đến bến đò ngày trước. Nhìn lại ngôi nhà của cô mà tim tôi đau nhói. Cô tôi mất cách đây năm năm. Ngày cô mất, ba tôi có về chịu tang. Riêng tôi, lúc ấy đang bận kỳ thi tốt nghiệp. Ngôi nhà từ đó thay đổi chủ. Bến đò Trường Thi bây giờ cỏ dại um tùm, phủ dày lau trắng. Cảnh cũ hoang vắng tiêu điều.
           
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm !
            Tôi đứng vào vị trí mà chị Thưa đã đứng tiễn tôi ngày xưa, lặng lẽ nhìn quãng sông chiều vỡ vụn ánh hoàng hôn. Hình nhứ có tiếng gọi đò văng vẳng mơ hồ vọng về từ trong thẳm sâu ký ức.
                            Qui Nhơn - Buôn Ma Thuột
                                                        T.Q.L

Lắng Nhe Để Cải Thiện Các Mối Quan Hệ

                                                                   (ảnh trên mạng)

                        
 Lưu Xuân Thanh

    Ngày vui thường đi nhanh, tết Nguyên Đán Mậu Tuất trôi qua mau, thời gian nghỉ đã hết . Bọn học trò chúng tôi về trường tiếp tục học tập . Ngày ấy toàn tỉnh chỉ có ba trường cấp hai ( nay là phổ thông cơ sở ) và duy nhất một trường cấp ba  . Hầu hết học sinh đều  phải đem gạo tiền đi ở trọ xa nhà để học . Thời đó các ông bà chủ nhà không lấy tiền trọ , cũng chẳng ai đề cập việc này . Chủ nhà coi chúng tôi như con cháu  …Một tối sau khi đã làm bài xong .Trời mưa phùn se se lạnh , anh Nguyễn Văn Chương ( nay là nhà thơ Nguyễn Văn  Chương ) sang nhà trọ của tôi chơi . Bác chủ nhà đãi ấm chè xanh . Vừa uống trà vừa nói chuyện học hành . Anh học trên tôi , nên tôi nhờ anh giảng cho vài bài khó … Rồi anh đọc thơ Nguyễn Bính :

   …Đêm ấy mưa xuân lất phất bay
       Hoa xoan từng lớp rụng vơi đầy
       Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
       Nghe nói thôn Đoài hát tối nay …
    Đọc xong bài thơ , anh bảo tôi : Tớ và cậu thư giãn bằng cách xứng họa thơ với đề là Tiền và anh đọc luôn :
                         Thứ sáu tuần nay tớ hết tiền
 Tôi họa tiếp :  Phải đi mượn gạo mấy bữa liền
 Anh Chương : Nhìn vào hũ muối ôi đã nhẵn  
  Tôi               : Mó đến chai tương lại phát phiền
 Anh Chương : Mực cạn dầu hao càng nhăn nhó
  Tôi                 : Tiền hết gạo không tưởng đến điên 
 Anh Chương : Chạy vạy làm sao qua thứ bảy
  Tôi                :   Đến chiều chủ nhật mới có tiền
   Bài thơ hoàn tất chúng tôi thấy vui vui . Bỗng nhiên bác chủ nhà là thày giáo từ thời Tây hỏi : Các cháu làm thơ gì vạy ?
 Tôi đáp lời bác chủ nhà :  Dạ thơ Đường ạ
  Bác nói tiếp : Tình , ý , Tứ  thì được , về liêm luật thì chưa ổn .
 Anh Chương im lặng ,  còn tôi chống chế : Thơ Đường theo kiểu học trò bác ạ ( thật ra lúc đó tôi nghĩ đây là bài thơ Đường hay) . Bác chủ nhà ôn tồn dạy bảo : Đã là thơ Đường tất phải giữ đúng liêm luật. Học trò lại cần phải giữ dúng phép tắc . Nay, còn là học trò liêm luật văn thơ đã vậy , mai sau Luật Đời sẽ sao đây . Ông nói tiếp : Cách ứng xử đôi khi quyết định thành công hay thất bại của một người trong cuộc sống . Cậu Chương sau này cuộc sống sẽ tốt hơn cậu .Vì biết lắng nghe nên không biện bạch . Cậu sẽ gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời . Nếu như cậu không biết lắng nghe những lời từ người khác , cho dù đó là lời chê bai rất nghịch nhĩ . Cậu có biết không câu tôi hỏi là hỏi cậu Chương , người đề xướng họa thơ .Vả lại cậu Chương học trước cậu , lẽ thường là hiểu biết hơn cậu . Chương chưa kịp lên tiếng trả lời, cậu đã giành quyền “ nói hộ” cậu ấy . Lắng nghe để hoàn thiện mình , để cải thiện các mối quan hệ với người khác. Đừng bao giờ quên câu : “ Nói hay không bằng nghe giỏi ” . Sau đó ông thấp giọng như thì thầm  :  Cháu ơi, cuộc đời đầy gai chướng . Đâu có bằng phảng , đâu có  đơn giản như luật thơ Đường . Cháu hãy nhớ những gì bác nói hôm nay …Anh Chương lúc này mới lên tiếng : Cháu cảm ơn những lời dạy của bác . Còn tôi đứng lặng như “Từ Hải … ” . Kể cũng lạ sau buổi tối hôm ấy bác chủ nhà quan tâm tôi hơn , dạy tôi nhiều điều .Ông chẳng nói ra nhưng tôi cảm nhận được tình thương của ông cho tôi
    Ông giáo đã quy tiên vào ngày này ba mươi tám năm trước . Đêm nay tôi bày hương hoa , trái cây lên bàn thờ phụ thân . Cầm nhang trên tay,  lòng bồi hồi tôi khấn nguyện : Tâm Hương này con xin gửi đến vong Hồn phụ thân và bác Đào Văn Tiến , cầu mong hai người cha an lạc trong thế giới vĩnh hằng . Đã năm mươi tư năm . Lời dạy của bác , con vẫn mang theo trong đầu từ ngày ấy đến nay . Con coi đó là một phần hành trang không thể thiếu trên đường đời đầy bất trắc . Bác ơi , có lẽ do Vận Mệnh đẩy đưa, nên trước đây có những lúc rất quan trọng , quyết định cuộc đời cần nhớ lời dạy của bác để bình tâm ứng xử cho đúng thì con lại quên …

   Quy Nhơn đêm  05 tháng 11 năm 2012

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012



Tản văn của Huỳnh Kim Bửu


Nắng mới



Trong cái giá lạnh của Mùa Đông, vạn vật thu mình lại và diễn ra một cảnh Đông tàn. Người ta bảo, đó là vạn vật ngủ Đông. Nhưng rồi theo lẽ tuần hoàn, Đông qua cho mùa Xuân lại, đem theo về nắng mới.

Vạn vật đến Xuân thì bừng thức: Cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, muông chim tưng bừng ca hót …Hòa cùng niềm vui đó, con người hớn hở đón chào chúa Xuân và nắng mới. Nắng mới đẹp lắm, người ta có nhiều chữ nghĩa để gọi tên nắng mới: Ánh thiều quang (Ngày Xuân con én đưa thoi / Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi (Thơ Kiều – Nguyễn Du), ánh dương quang, ánh hồng, nắng tươi, nắng vàng, nắng rực rỡ... Cái tên gọi nắng Xuân (vẫn đồng nghĩa với nắng mới) để đi cùng với gió Xuân (Xuân phong, Đông phong) sông Xuân (Xuân giang) núi Xuân (Xuân sơn), tuổi thanh xuân, ngày Xuân, đêm Xuân… Ngôn ngữ thời nay còn gọi nắng mới là nắng thủy tinh. Cái gì bền vững, trong suốt là thủy tinh, pha lê: Tình yêu đạt đến mức bền vững, trong suốt là tình yêu pha lê, thủy tinh. Nắng mới làm cho màu sắc thắm tươi, hương ngạt ngào, cho thiếu nữ má hồng môi thắm, cho những cụ bà “Nụ cười đen nhánh sau tay áo” (thơ Lưu Trọng Lư)… Hơn thế, người ta còn cảm nhận ở nắng mới bao điều cô lẻ, nhớ nhung mà sâu xa, huyền diệu hơn: “Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng / Có ai tiễn biệt nơi xa ấy / Xui bước chân đây cũng ngại ngùng… “ (Huy Cận).

Thời tuổi thơ của mình, tôi có nhiều kỷ niệm với nắng mới, những kỷ niệm mãi vương vấn trong tôi. Đó là ngày tôi được nhìn thấy ba tôi từ bỏ chiếc áo tơi chiếu nặng nề, sũng nước mà người vẫn mang đi làm đồng ngày mưa bay gió vãi, nước lũ ngập trắng đồng. Đó là một buổi sáng, tôi được nhìn thấy má tôi đem chiếc mền bông gòn thủng nhiều lỗ (vì sự cháy leo của chậu lửa sưởi ấm đêm đêm đặt ở gầm giường) ra phơi trước nắng. Má bảo, trông cho nắng tốt, mền mau khô, đặng tối, lũ anh em chúng tôi có mà đắp, bởi vì vẫn còn cái rét muộn. Rồi những giàn bầu bí trong sân nở hoa vàng rực, rủ rê ong bướm bay về, dệt nên một cảnh đẹp làm lòng tôi sướng vui. Tôi nhớ hình bóng những cô gái quê ngồi bên giếng khơi, gội đầu bằng nước hương nhu dưới màu nắng ban mai ấm áp mà rực rỡ. Tôi còn nhớ như in, kỷ niệm được mặc quần áo mới, được đeo cặp sách mới đến trường trong ngày đầu năm mà ở đâu cũng tràn ngập một màu nắng vàng tươi. Vẫn chưa phai mờ cảm giác mát thịt mát da mỗi khi được tắm mát dòng sông quê lấp lánh màu nắng Xuân; cảm giác dịu êm nơi đôi bàn chân những hôm đi dạo trên những thảm cỏ xanh trải rộng dưới nắng vàng trên những ngọn đồi úp bát quanh vùng thành Hoàng Đế…Dưới nắng mới, lũ nhỏ trong cái xóm vẫn hàng ngày nghe thập thình tiếng chày giã gạo của những nhà hàng xáo, thường rủ nhau kéo ra đồng làng, bày đủ thứ trò chơi: Đào đất sét bờ sông nặn tu hú đem phơi nắng, ném thia lia trên mặt những ao sâu, hái cỏ chỉ, cỏ gà chơi đá gà, thắt bầy trâu, đàn nai, xếp hình để đọ sừng, đọ gạc…ăn thua với nhau.  Chao ôi, làm sao tôi kể hết những kỷ niệm êm đềm mà khó quên của thời thơ ấu mình được sống ở quê và được vui cùng nắng mới. Có thể nói, nắng mới và quê nhà vùng Phủ An là niềm hạnh phúc của tuổi thơ tôi. Chúng lặng lẽ để lại trong tôi một tình yêu dấu, những kỷ niệm êm đềm về một vùng quê cha đất tổ.

Từ bao năm nay, tôi sống ở thành phố. Dù cuộc kiếm sống ở đây bắt tôi phải luôn tất bật, nhưng bao giờ cũng vậy, sau buổi Đông tàn, lòng tôi vẫn rạo rực một tình cảm đón Xuân và nắng mới về. Rồi có một ngày, nắng mới lên. Từ hôm đó, hồn tôi như bao giờ cũng bỏ ngỏ để xao xuyến cùng với gió Đông, với sông Xuân, với màu nắng mới nơi tà áo nữ sinh mà tôi đã cho là đôi cánh thiên thần trong các pho truyện cổ tích. Tôi cũng xao xuyến mỗi lần được ngắm nắng mới nơi màu áo của các anh công nhân đang lao động hết mình vì sự nghiệp dựng xây cuộc sống mới. Tôi thực tình xao xuyến mỗi lần được ngắm nắng mới nơi các công viên xanh mà người ta vẫn bảo, đó là những lá phổi của thành phố đang phấn đấu trở thành một thành phố xanh – sạch – đẹp.
Tôi đã thật no nê chưa với cái thú vui cùng nắng mới nơi thành phố mà tôi đang cư trú?
Nhưng dù cho có ra sao, lòng tôi vẫn không khỏi hoài nhớ cái nắng mới của một vùng quê dưới chân thành Hoàng Đế. Nơi vùng quê đó, mùa Xuân và nắng mới bao giờ cũng huy hoàng rực rỡ, bầu trời cứ cao xanh cho muôn chim én bay về, mặt đất trải một màu xanh bao la rợn ngợp, và hồn người thì chất chứa bao niềm tươi vui, hoan hỷ.