.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012


Tản văn của Huỳnh Kim Bửu


ăn cháo lươn,
tản mạn nghề bắt lươn




 Ở Quy Nhơn bây giờ, mọc dày những quán cháo lươn, miến lươn trên các đường phố. Món này phục vụ ăn sáng cho mọi giới: dân sành ăn, dân “cựu” gốc rạ ra phố chưa quên hương vị đồng quê. Lại không như phở, bún, món cháo lươn bình dân (10. 000đ / bát ngon miệng, chưa có bánh tráng). 
Một sáng Chủ nhật, bạn đã vào một quán cháo lươn đang đông khách. Vì đông khách, cho nên chắc là quán ngon. Một bát cháo lươn đã được đặt ở trước mặt bạn. Nhìn, bạn đã thấy ngon: Bát cháo vàng tươm, đậm đặc, váng trên mặt những sợi thịt lươn (lớn bằng sợi phở hoặc gấp đôi sợi phở tươi), mùi thơm lựng từ bát cháo bốc lên mũi bạn … Xung quanh bát cháo đặt thẩu con bột nghệ dẻo, thẩu con riềng xắt lát, đĩa con nước mắm trong - nổi mấy lát ớt chín đỏ - một đĩa con nữa đựng những lát chanh tươi… Bạn hãy nêm thêm các thứ đó, rồi trộn đều bát cháo mới ăn. Chủ quán vừa đặt thêm vào bàn đĩa bánh tráng bẻ làm tư cho gọn. Không ăn vội, ăn tới đâu, bạn bẻ bánh tráng giòn giòn thơm thơm tới đó. Bạn hãy nhìn xem, thực khách xung quanh bạn cũng ăn như thế. Họ ăn chăm chỉ, vì cái ngon đang thu hút đầu óc họ. Chắc là bạn cũng như họ, nhưng có thể bạn còn nghe thêm một chút xa xăm: Hương vị đậm đà, khá quen thuộc của bát cháo lươn ngày xưa mẹ vẫn nấu cho mình ăn?
  
Trong đồng ruộng, mương lạch ngày trước đây, con lươn có nhiều lắm. Nhưng nay ít rồi, vì lươn chịu chung số phận với con cua, con cá ngoài đồng: Không sống nổi với thuốc trừ sâu, phân hóa học của các bác nông dân cầu miếng cơm ăn mà quên con cá, con lươn – mấy đời vẫn có mặt trong mâm cơm của mình. Ngày nay, người ta bắt lươn ở các đầm, vũng lớn hoặc đào hồ trong vườn nhà mà nuôi, cho ăn thực phẩm.
Lươn mình trơn, thân to bằng cuốn lá đu đủ, thon đều, dài bốn – năm tấc, đầu chai cứng, giỏi dụi bùn, chuyên đào đất làm (hang) ở: “Thân lươn bao quản lấm đầu” (Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Cái trúm là dụng cụ lợi hại nhất đối với con lươn. Có hai loại trúm: Trúm nan tre và trúm ống tre. Trúm đan nan tre hình quả chùy (ta thấy trong sân thể thao) đầu bầu trúm có toi, đầu thon là miệng trúm, có nắp đậy. Trúm ống tre là một đoạn thân tre già 2 mắt. Một đầu làm miệng trúm, lấy mắt làm nắp đậy, đục bỏ mắt giữa cho thông nhau; đầu còn lại bỏ mắt, lắp toi. Loại dụng cụ trúm nào cũng có hai thanh tre dài, chắc chắn đâm xuyên qua trúm, để vừa giữ cố định cho toi trúm, miệng trúm, lại cũng để khi đi dắt trúm, hai thanh tre ghim chặt trúm vào bờ ruộng, bờ mương. Trong lòng trúm, đựng mồi. Mồi là những xác trùn, xác cua đồng ủ ươn, tanh. Sau khi đã chuẩn bị cho “cuộc” đánh trúm xong (đủ mồi nhử, kiểm tra lại thân trúm, miệng trúm, toi trúm) dân đánh trúm đợi chiều xẩm đến, “làm gánh”, gánh trúm đi ra đồng. Họ thường đi từng đoàn 4 – 5 người. Khi đi trên đường làng, ngõ xóm, người gánh trúm vừa đi vừa thả mùi tanh lại nơi cuối ngọn gió, khiến người ta quở, bịt mũi. Những nơi họ gánh trúm đến là đồng, vũng, mương lạch, những nơi có độ bùn dày, lùng lác rậm rạp cho trúm ở và dễ kiếm con mồi ăn. Thường mỗi bữa dắt trúm xong, đêm hết canh một, họ kéo nhau về, kể chuyện gặp ma đuốc, ma cà rồng cho vợ con nghe, vui. Rồi đi ngủ, cho kịp sáng hôm sau thức dậy sớm, đi giở trúm. Bữa gặp hên, trúm nào cũng giở lên nặng trịch, lươn vắt cục trong bụng trúm; trái lại, không ít bữa “đói”, đi có về không.

Sau đánh trúm, đến câu lươn. Câu lươn là cách làm ăn tùy hứng, không “nghề” như đánh trúm. Đang trưa hè, trời nắng chang chang, anh nông dân trẻ muốn cải thiện bữa ăn, bèn vác cuốc ra vườn đào mấy con trùn, gói theo, rồi đội nón mê, cầm “cần” câu, đi câu lươn. Phải câu lươn vào giữa trưa, nắng gắt, vì đây là lúc lươn sợ nắng chui vào , tìm mát. Người giỏi, đi câu một buổi, thả câu mười mà, kiếm được mười con lươn lớn nhỏ. Dụng cụ câu lươn là lưỡi câu uốn khớp miệng lươn. Lưỡi câu được cột chặt với một đầu sợi dây gai xe săn, lớn bằng thân cây kim đan len, dài chừng 1 thước. Đầu kia sợi dây, cho tay cầm. Người câu lươn đi dọc bờ ruộng, tìm . Gặp chỗ miệng có sủi bọt (do lươn thở) dừng lại, thả câu. Ngồi với tư thế 1 chân bờ, 1 chân ruộng, tay xoăn xoăn sợi dây câu đã móc mồi (một khúc trùn) đằng lưỡi câu, để đưa dây câu vào sâu trong mà. Lươn nghe động và mùi tanh thì há miệng bập, nuốt ực cả mồi và lưỡi câu vào bụng. Bị đau, biết bị tấn công, lươn chui sâu vào “thủ thế”, gây nên sự trì níu với anh đi câu. Người câu lươn lập tức kéo sợi dây câu ra khỏi mà, giơ cao lên, thân lươn vặn lại như cái mũi khoan, cái lò xo, tòong teng dưới lưỡi câu. Anh ta lấy ba ngón tay giữa ngoéo chặt lươn, cho vào đụt. Trong trường hợp, nghi rằng lươn “ngủ”, không nghe thấy mồi đến miệng, anh lấy ngón tay bật bật nước, đánh thức lươn dậy mà ăn mồi.
Gặp con lươn “khôn” không chịu ăn mồi để khỏi mắc câu, người ta đào bờ ruộng ra mà bắt lươn trong mà. Lươn không thoát khỏi, nhưng bờ ruộng bị vỡ ra. Người câu lươn đào bờ ruộng nhà, không can; chứ đào bờ ruộng người khác, hãy coi chừng “ăn” cán cuốc của ông chủ ruộng đến bất thình lình.  
Mùa mưa lụt, nước tràn đồng, nhiều tay vác rổ xúc ra đồng xúc cua. Nhiều mẻ, kéo lên được cả cua, lẩn cá, lươn…
Bắt lươn không dễ, vì lươn khá mạnh và thân lươn trơn cực kỳ. Dân “thiện nghệ” bắt lươn bằng ba ngón tay: Giữa – trỏ - áp út. Phát hiện con lươn đang dụi bùn đó, người ta dùng bàn tay chộp lấy, rồi lập tức kẹp giữa thân nó bằng 3 ngón tay, dùng ngón giữa ngoéo chặt, khóa lại, làm cho thân lươn in hình bị gãy đôi: đầu lươn chóc lên cao chới với, đuôi lươn ngo ngoe, yếu ớt, như bị tê liệt hẳn, không còn nữa sức mạnh vốn có của nó. Lươn bây giờ chỉ còn chui vào đụt.

Bà nội trợ giỏi, chế biến được nhiều món lươn ngon: Cháo lươn, miến lươn, lươn um…Ở Bình Định, món lươn um dầu, hành, tiêu bắp chuối chát thái nhỏ, trái chuối chát xắt lát dày kèm lá ngổ, đỗ phộng hạt rang chín …Um cho tới khi mở nắp vung ra nghe thơm ngát, sực nức mũi, thế là được món ngon trong cỗ giỗ nhà giàu, bên cạnh món gà hầm, cá ám, vịt tiềm.
Thịt lươn chứa nhiều loại vitamin và chất khoáng, như vitamin A, B1, B6, sắt, natri, kali, calci. Sách Đông y mách: Ăn thịt lươn có tác dụng bồi bổ khí huyết, tiêu trừ phong thấp, có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng… Với đặc tính bồi dưỡng và sinh khí huyết, máu lươn có tác dụng giúp lưu thông máu huyết, tăng cường dương khí, khả năng tình dục…
Cùng “gia tộc” với lươn, có chình. Ai về Bình Định, ghé ra Phù Mỹ sẽ được thưởng thức thịt chình và được nghe nói nhiều về chình Trà Ổ. Đầm này có loại chình mun, các nơi khác không có. Thịt chình mun ngon, chế biến được nhiều món: Chình nướng lá chanh, chình hấp, cháo chình…Món nào cũng tuyệt ngon, khiến du khách ăn rồi, không khỏi hẹn ngày trở lại. Chình bông cũng ngon nổi tiếng, có nhiều ở vùng đầm, hồ Kẻ Thử - Phù Cát.

Ở làng An Định, có xóm mang tên: xóm “Câu lươn”. Đây là một xóm nghèo. Hỏi tại sao? Người ta trả lời, bởi lươn nhớt, đồng tiền kiếm được từ lươn cứ tuột khỏi tay, không giữ được. Đàn ông ngày xưa thường mặc quần lưng bầu lươn (lưng quần may bản chừng 1 tấc). Tại sao gọi cái lưng quần to bản 1 tấc đó là lưng bầu lươn? Có phải vì, các cụ xưa cất các thứ vào cái lưng quần đó? Tờ bạc, tờ giấy nợ, thư từ…trải dọc, xe tròn như thân lươn, đút vô đó, chắc ăn hơn đút vô túi sợ bị trồi đi mất. Các cụ mình chơi “tiện lợi” còn hơn cả người thời nay, không phải mỗi cái quần bà ba kia có một dây lưng rút mà chỉ có một dây lưng rút chung cho hết thảy các cái quần. Dây lưng rút đó là một sợi dây trân hay dây mây (không dây vải, vì sợ nó thấm mồ hôi, thấm nước mục sớm) cột quanh bụng. Khi mặc, kéo quần lên, vắt lưng bầu lươn vào sợi dây cột sẵn đó, thế là mặc xong quần, an toàn, không sợ sút quần; có hứng tới, mặc thêm áo, cầm dù là đủ “lệ bộ” đi thăm sui gia, dự đám tiệc, cứ được. Trong dân gian cũng có thành ngữ “Trật bầu lươn” để nói về việc làm ăn gặp rủi, mà thất bại, nghèo khó. Thảm thay cho những người lấy câu “Thân lươn bao quản lấm đầu” mà than thân trách phận, biện hộ cho cảnh ngộ không may của mình. Mấy hôm nay, bác nông dân nọ câu được chục con lươn đang rộng trong chậu, sáng nay chợt nhớ ngày giỗ người bà con đến, bèn làm cái đụt bẹ chuối xanh tươi bẻ gập lại, đựng lươn, mang đi ăn giỗ. 

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012


Tà áo lụa giữa những cánh sen
        Nguyên tác : Un lembo di seta tra i fori di loto
      Của Elena Pucillo Truong
            ( Bản dịch của Trương Văn Dân)



Không khí ngạt thở  bởi giao thông trong các thành phố lớn. Đó là  cảm giác đầu tiên khi ghé thăm một đô thị lớn dù là Á hay Âu, ngạt thở vì hơi nóng, bụi bặm, khí thải từ các phương tiện giao thông,  khó chịu vì tiếng ồn ào của xe cộ và tiếng còi xe. Tôi nhận ra là sống trong điều kiện ấy, dần dà người ta phát triển được khả năng thích ứng, giống như một sự cam phận.
Người ta làm quen và  chịu đựng tất cả mọi thứ, dù lúc ban đầu không thể nào chấp nhận, thế mà về  sau lại xem những vấn nạn đó như là điều hiển nhiên trong thế giới này. Nghĩa là tôi cũng quen dần với những tiếng ồn ào của xe cộ, với những phố xá đông người. Khi trở về Ý, ở một thị trấn nhỏ yên tĩnh hơn,  thật là vô lý, tôi lại thấy thiếu vắng đám đông người, thiếu vắng những tiếng động và mùi vị của Sài Gòn. Rồi khi trở lại Việt nam, những thứ mà tôi cảm thấy “nhớ” kia lại xuất hiện và hằng ngày vây bủa lấy tôi.
Ở Ý, bạn bè rất nhiều người tò mò hỏi tôi là Việt Nam như thế nào, một đất nước xa xôi, khác biệt về khí hậu, ngôn ngữ và tập quán. Thường thì tôi nói về đời sống vô cùng khác biệt trong các thành phố lớn như Hà nội hay Sài Gòn so với các thôn xóm nằm giữa ruộng đồng bát ngát, khuất sau những luỹ tre xanh và các hàng dừa cao. Tôi luôn nói thêm là tôi rất nhớ màu xanh của lúa, các màu sắc của đồng quê, đây đó nổi lên một ngôi mộ cổ hay hiện lên một mái chùa, những ngôi nhà tranh có đàn gà cục tác hay các ao hồ có đàn vịt bình yên bơi lội. Nhưng cũng có lúc tôi nói với các bạn về sự giao thông hỗn loạn, rất giống nhau giữa các thành phố lớn, như Napoli ở Ý thì chẳng khác Hà Nội là bao!
Ở Ý, hầu như suốt cuộc đời tôi luôn luôn là một cuộc chạy đua với thời gian. Đời sống hối hả, lúc nào cũng cuống cuồng: đi học, đi dạy, đi làm, tiếp xúc với mọi người trong cái nạn kẹt xe khốn khổ, nhiều khi ngồi bất lực một mình trong xe hơi, xung quanh được bao vây bởi những chiếc xe bất động khác. Chiếc đồng hồ trên tay tôi luôn được chỉnh nhanh hơn 15 phút để tránh việc đến nơi hẹn trễ. Luôn luôn “xung kích” , không bao giờ ngừng nghỉ.
Về sống ở  Việt nam có làm chậm tốc độ sống phần nào, nhất là thời gian đầu, nhưng sau này nhịp sống hối hả cũng bắt đầu xâm nhập ở nơi đây rồi!
Một buổi chiều, sau khi xong giờ dạy ở trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, vừa bước vào nhà  thì chồng tôi nhắc:
  • Ti nay mình còn phi đi gp các bn na đó!
Chỉ có một  ít thời gian để thay quần áo và chúng tôi đã ngồi lên xe máy. Sự giao thông thường lệ vào buổi chiều… rồi đây, chúng tôi sắp đến, rẽ qua một con hẻm nhỏ sau lưng Đài Truyền Hình thành phố và dừng lại trước một bảng hiệu có ánh đèn.
Tôi chẳng biết điều gì đang xảy ra: có một điều gì đó khác thường! Chỉ mới vừa lách qua một con hẻm mà tôi đã thấy như mình đã ở rất xa phố thị.
Ngồi trên căn gác có thành chắn làm bằng gỗ tre, những người bạn mời chúng tôi  đi lên. Chỉ khi ngồi xuống chiếc băng dài làm bằng gỗ màu nâu sậm tôi mới nhận biết là mình đang ở đâu: một trà quán; trên các bức tường có treo các bức thư pháp viết trên các nan tre, nội dung về thiền trà và Phật giáo. Khi nhìn bức tượng Phật thật lớn đang ngồi kiết già thiền định ở trước mặt lòng tôi bỗng cảm thấy bình yên.
Người bạn mời chúng tôi đến đây là nhà văn Nhật Chiêu, hiện đang giảng dạy văn học ở trường Đại Học KHXH và Nhân Văn, người rất nổi tiếng về những tác phẩm văn chương và các công trình nghiên cứu về văn học Nhật và Anh. Đó là một nhà văn uy tín có tài năng nhưng rất khiêm tốn. Có lẽ nhờ bản tính hiền hậu nên ông được bạn bè ái mộ và có nhiều sinh viên quý mến.
Từ nhiều năm Nhật Chiêu là người bạn rất chân tình của chúng tôi và tôi tin không phải là một sự tình cờ mà hôm nay chúng tôi gặp gỡ ở đây. Bằng sự minh triết và  ôn hoà, dường như ông muốn giới thiệu với tôi những điều tôi chưa biết.
Chính Nhật Chiêu đã giới thiệu tôi với bà Viên Trân bà chủ thiền trà, mà  mới đầu tôi tưởng là một nữ đạo sĩ.  Đó là một thiếu phụ có khuôn mặt dịu hiền, trong sáng và bình an. Bà mặc một chiếc áo dài bằng lụa mỏng có hai tà áo bay lất phất và thướt tha. Rất nhiều năm đã sống ở Việt Nam nhưng tôi không lúc nào không hâm mộ chiếc áo dài  truyền thống của đất nước này. Nhiều năm trước, lúc mới quen chồng tôi, khi đó là một chàng sinh viên mới sang Ý du học, anh đã kể cho tôi nghe rất nhiều điều: Nhiều lần lấy xe máy chạy ra cổng trường nữ trung học lúc tan trường để chờ các nữ sinh: Một biển người thướt tha trong chiếc áo dài tinh khôi, hai tà áo trắng cùng với mái tóc huyền tung bay theo gió. Một hình ảnh đến giờ vẫn còn làm tôi xúc động là khi nhìn thấy các  cô gái mặc áo dài trắng, thong thả dắt chiếc xe đạp trước cổng trường.
Chồng tôi rất thích nhìn phụ nữ  mặc áo dài. Anh nói  thoạt nhìn trông nó cũng tương tự như các loại trang phục của các đất nước Á châu khác, thế nhưng khi trời có gió hay người mặc nó chuyển động, hai tà áo ve vẩy phất phơ  làm bước đi của người đàn bà  thanh thoát và uyển chuyển.
Tôi cũng có chiếc  áo dài đầu tiên của mình khi về Việt Nam lần  đầu để tổ chức đám cưới vào năm 1985. Mấy năm sau, đi dự đám cưới của hai người bạn Ý ở Milano, tôi cũng thấy cô dâu mặc áo dài mà cô đã  rất thích và đặt may trong một chuyến du lịch ở Việt Nam. Đó là kiểu áo, mà như tôi đã nói, người phụ nữ nào có cơ hội mặc nó sẽ cảm thấy mình là một bà hoàng. Dù nó chỉ có một màu hay có được thêu những hoa văn  tuyệt đẹp hay không, nó vẫn luôn lịch sự và quyến rũ.
Và chiếc áo dài mà bà Viên Trân đang mặc cũng thế:  được may bằng lụa có pha những sợi tơ óng ánh, bà còn lịch sự quàng một chiếc khăn trên cổ, nút thắt hờ, làm nổi bật màu xanh da trời của tơ lụa. Giọng nói của bà nhẹ nhàng, ngọt ngào và thanh thoát như tiếng đàn tranh của một cô gái  mảnh mai đang gẩy cùng với một thầy dạy đàn tranh, nhà thơ Lê Mộng Thắng. Ông ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đặt trên nền nhà với nhạc cụ của mình. 
Tôi ngồi quan sát các cử chỉ thành thạo và điệu nghệ của bà Viên Trân lúc pha trà. Mỗi loại trà được chọn lựa tuỳ theo khoảnh khắc thích hợp chứ  không phải tình cờ. 
Bà Viên Trân giải thích là bà đang chọn trà tẩm hương sen, rồi thông cảm với vẻ tò mò của khách, bà đưa cho tôi một búp sen có những cánh vừa hé mở, bên trong có một nhúm trà và đỉnh hoa được cột lại bằng một sợi vải. Bằng cách đó, sau một thời gian trà sẽ được tẩm hương sen và toả ra trong bình trà lúc được pha nước nóng. Trong lúc quan sát các cử chỉ thành thạo của bà từ lúc châm nước sôi vào bình trà, bỏ trà vào, châm thêm nước sôi rồi sau một lúc, đổ đi. Sau hai lần như vậy bà mới châm nước sôi vào bình trà, đậy nắp và đặt giữa những chiếc tách nhỏ đã chuẩn bị từ trước.
Căn phòng lúc này thoang thoảng hương sen. Không gian yên tĩnh và thanh thoát còn thú vị hơn từ những lời trò chuyện nhẹ nhàng, từ  tiếng cười đầy tính bạn bè  được đệm bằng tiếng nhạc êm dịu của hai chiếc đàn tranh. Cả thầy và trò cùng dạo nhạc và có một lúc, nhà thơ Lê Mộng Thắng còn cao hứng buông đàn để ngâm Kiều và mấy bài cổ thi, giọng ngâm ấm áp của ông được cô học trò điểm nhẹ bằng vài tiếng đàn tranh.
Trước khi uống trà, bà Viên Trân rót cho mỗi người một chén rượu nhỏ rất thơm. Bà nói đó là thứ rượu sen do mà bà tự làm, theo một công thức từ đời Trần, cách nay mấy thế kỷ. Tôi không quen uống rượu, nhưng vì tò mò và không muốn mất một chút gì trong giây phút đặc biệt nầy nên cầm lấy chén rượu nhỏ bà đưa. Hơi nóng của rượu lan khắp toàn thân lúc tôi nhấp những giọt cuối trên môi.
Chỉ sau khi mọi người uống cạn chén rượu sen bà Viên Trân mới bắt đầu chiết trà ra các tách nhỏ đang đặt thành vòng tròn trên mặt bàn. Tia nước từ vòi của ấm trà như đang vẽ một đường cong liên tục trong không gian, lên xuống nhịp nhàng từ tách đầu đến tách cuối. Bằng một động tác thật thuần thục, cổ tay thon mềm của bà chuyển động nhẹ đến nỗi như không thể nào nhận biết, bà chiết đầy trên tất cả các tách trà. Tôi có cảm giác là thời gian đã ngưng lại trong khoảnh khắc đó: Chẳng quan trọng là mình đang ở đâu, đang làm gì, ở đây không có chỗ cho quá khứ với những muộn phiền mà cũng chẳng còn chỗ cho tương lai với bao ẩn số.
Không. Chỉ còn lại khoảnh khắc vô tận này, khi tôi ấp tách trà nóng ngào ngạt hương sen giữa hai lòng bàn tay. Tôi cảm nhận được tất cả những cảm giác của mình. Một niềm xúc động sâu xa, có mang theo hậu vị thơm ngon từ chén rượu sen vừa nhấp. Hơi nóng của trà lan khắp toàn thân, và đó là một điều gì rất lạ, tuy rất “vật lý”, bên ngoài mà hình như đã mang lại cho tôi một sự bình an ở bên trong. Đó chính là niềm vui khi nhận một món quà không mong đợi, một thứ hơi ấm của tình người, có những người bạn quây quần bên nhau.
Biết bao điều tôi học  được trong tối ấy! Tôi nhớ là sau đó bà Viên Trân đã mang ra mấy chiếc bánh đậu xanh mà chúng tôi nhâm nhi lúc uống trà.
Tôi còn gặp những người bạn quý và bà Viên Trân vào những lần khác trong quán trà, chúng tôi đã trao đổi rất nhiều chuyện quanh ấm trà làm khép lại những cánh hoa sen và tách trà ngào ngạt hương thơm, thế nhưng lần nào tôi cũng đều sống lại và cảm nhận cái không khí thân tình và thanh thoát đó.
Sự hài hoà của  âm nhạc, của lời nói thân tình, sức nóng và mùi vị đặc biệt của rượu sen được đưa lên khi tiếp xúc với trà nóng, chiếc bánh đậu xanh, tiếng xào xạc và màu sắc quyến rũ của những tà áo dài, sự thanh thản của giây phút sống bên cạnh nhà văn Nhật Chiêu, bà Viên Trân cùng các người bạn khác như nhà thơ Lê Mộng Thắng, nhà báo Ngân Hoa... chính là lý do làm tôi rất yêu mến đất nước này. Dù đã nhiều năm sống ở đây nhưng với tôi, lúc nào tôi cũng cảm thấy là còn nhiều điều cần phải khám phá. Và kinh ngạc.
Elena Pucillo Truong
Saigon 7-2012

Nguồn: Trích chuyên mục Sống và Viết, tập san Quán Văn số 009, tháng 10-2012