.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010

Tản văn của Huỳnh Kim Bửu


ĐÌNH  LÀNG


          Rằm tháng giêng, về An Nhơn. Mặc cho trời giá rét, người đi du Xuân vẫn nhộn nhịp, trong sân nhiều nhà vẫn còn rực rỡ sắc mai vàng, nhiều làng tổ chức lễ cúng kỳ yên và hát bội. Tôi đã ở lại với bà con làng An Định ba ngày đêm để xem hát và nghe chuyện về cái đình, do mấy người trung niên và các cụ bô lão trong làng kể lại. “Trong các làng quê, làng nào chẳng có một ngôi đình! Mà nghe nói ở thành phố Quy Nhơn cũng có đình: Đình Cẩm Thượng, đình Xuân Quơn..  Đình làng quen thuộc quá đối với mọi người: Như trong ca dao “Hôm qua tát nước bên đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen…”.
          Đình làng An Định của mình ở trung tâm điểm của bốn xóm: Xóm Miễu Đông, xóm Miễu Tây, xóm Miễu Nam và xóm Miễu Bắc. Các xóm châu tuần với đình. Nhìn từ xa, khách thăm làng đã thấy nóc đình hiện lên từ một vùng cổ thụ xanh um. Con đường dẫn tới đình tẽ ra từ đường làng. Đình là một tòa nhà năm gian chái, uy nghi cổ kính. Mái đình lợp ngói âm dương, nóc đình đắp lưỡng long chầu nguyệt, mặt tiền của đình sau một lần cửa võng là lớp cửa bàn khoa; nội thất đình đủ các thứ hoành phi, liễn đối, long ngai, thần chủ rực rỡ vàng son, và đầy vẻ đẹp của những hoa văn, họa tiết chạm khắc trên mái, trên rui, trên kèo, trên trính… bên cạnh đình là những nhà tả gian, hữu gian và những hành lang. Đình có sân rộng ở trước, có bình phong trụ biểu với nhiều nghê đá, sư tử đá ở trong sân và ngoài cùng là cửa tam quan.  Cửa tam quan soi bóng nước ao sen và đón gió đồng làng. Làng lớn như làng An Ngãi. làng Biểu Chánh, đình làng 7 gian 2 chái có ao sen trước đình rộng tới mấy mẫu. Đa số các ngôi đình ở quê tôi đều hướng mặt vào Nam, chỉ có một ít đình do thuật phong thủy mới quay mặt hướng khác, như đình Thuận Thái quay mặt ra hướng Bắc…
          Đình làng được lập ra để thờ Thánh hoàng. Tượng Thành hoàng ngồi trên long ngai đặt nơi bàn thờ giữa, các bàn ở hai bên thờ các bộ hạ của Thành hoàng. Nếu không có tượng Thành hoàng thì có thần chủ, bài vị thay thế. Mỗi làng có vị Thành hoàng riêng.Làng theo nghề thợ dệt thì thờ Thành hoàng là người có công dạy dân nghề canh cửi. Làng đúc đồng, thờ Thành hoàng là người đem nghề đúc đồng về làng. Thành hoàng như vậy thường xuất thân từ trong dân, rất gần gũi với dân. Tuy nhiên, cũng có làng – như làng Háo Đức – đình làng thờ ông Quan Vân Trường (Quan Công) và các ông Quan Bình, Châu Xương (thời Tam quốc). Làng An Định của tôi thờ Thành hoàng là ông thầy đồ Trần Văn Huấn, không biết quê ở đâu đã đến đây dạy học. Bên cạnh đình có lập nhà thờ “Ông Lớn”. Ông Lớn tên Lê Đình Xuân, là người trong làng, đỗ khoa thi võ ra làm một chức quan võ của triều Nguyễn. Dân coi vị Thành hoàng nào cũng là Phúc thần, luôn phò hộ độ trì cho những dân làng lương thiện.
          Đình có hương khói hằng ngày, mỗi tháng đến ngày sóc (mồng một), vọng  (rằm) đều có cúng trà nước, hoa, chuối. Công việc này do ông từ làm: “Lừ đừ như ông từ vào đền”. Hằng năm. Đình có hai lần tế lễ, hội hè lớn; Đó là lệ  “ Xuân Thu nhị kỳ”: mùa Xuân cầu quốc thái dân an (kỳ yên), mùa Thu tạ ơn Thành hoàng đã bảo vệ dân làng tai qua nạn khỏi và làm ăn thịnh đạt. Đó là những dịp dân làng được ăn uống (hương ẩm), được vui chơi. Ăn uống thì “một miếng thịt làng bằng một sàng thịt chợ”, “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Ai cũng lấy đó làm điều sung sướng, làm niềm vinh dự. Hương chức nhìn vào đó mà hiểu rõ thêm cái câu nói mình đã thuộc: “Dân dĩ thực vi tiên” (Dân lấy cái ăn làm trước) (1) lấy đó làm trách nhiệm lo cái ăn cho dân. Còn vui chơi thì xem hát bội và chơi các trò: Kéo co, đô vật, đập ấm, bịt mắt bắt dê, đánh cờ người,… Đình mà không đám, có khác gì chùa cho bổn đạo về tụng kinh. Phải chăng từ đó mà có từ “đình đám” trong ngôn ngữ dân gian mà ta thường gặp? Ông Phi cha rồi ông Phi con, nhà hai đời làm ông từ giữ đình An Định. Mỗi khi làng cúng, ông Phi cha được làm phụ thợ chả, nhờ thế mà học được nghề. Đến khi già, ông truyền lại cho con “chức” ông từ giữ đình và nghề mang dao thớt đi khắp làng để mổ lợn, quết chả làm đám.
          Hương chức làm việc tại đình, họp dân để bàn và “triển khai” việc làng tại đình ( Nhà Hữu giang còn được gọi là nhà hương hội). Thành hoàng giám sát các việc vua của làng, “nghị quyết” của làng đã có thần linh chứng giám, buộc mọi người phải làm đúng, làm nghiêm chỉnh cho dù có phải cãi lại phép vua  (Phép vua thua lệ làng). Xem như thế, làng quan trọng biết chừng nào. Mà làng quan trọng thì cái đình cũng quan trọng theo.
           Đêm hát thứ ba là đêm hát San hậu thành, sân khấu thiếu điều ngả nghiêng  vì hát hay và không khí phấn khởi của hồi tôn vương. Sau đêm hát, tôi về nghỉ đêm ở nhà cụ Tú Lễ 80 tuổi, vẫn còn minh mẫn. Cụ thức đến gần sáng, uống rượu và nói tiếp câu chuyện bỏ dở hôm qua: “Ôi chao! Hễ đi xa thì nhớ cái đình như nhớ nhà. Cũng phải thôi, vì mình còn nhỏ, hằng ngày ra đình nhặt quả bàng khô, om cột đình làng bóng xoay tít quay với chúng bạn cùng lứa tuổi, chờ có lễ hội ở đình đi xem. Đến khi cao niên được làng mời ra đình đọc chữ Nho, cầm chầu dám hát, ăn uống ngồi chiếu trên, lại còn được thằng mõ đưa cái thủ lợn về nhà…”. Cụ dừng lại uống rượu, tôi hỏi: “Thưa bác, chữ  “đình” có ý nghĩa gì trong từ triều đình? Cụ lại hớp một ngụm rượu, gật gù, rồi nói: “Chà! Câu hỏi bất ngờ mà lý thú lắm. Triều là nơi của hương lý, của làng. Vạn làng hợp lại thành nước. vạn làng yên vui thì nước yên vui, thái bình. Còn nữa, giặc ngoại xâm vào thì giày xéo, tàn sát dân làng trước hết, cho nên vạn làng lo đánh giặc giữ làng, thành ra cả nước đánh giặc giữ nước”. Tôi già, nôm na mách qué thế, xin chú đừng trách!”. Nói xong, cụ quay ra ngủ khì… Chỉ còn có tôi thức với bao ý nghĩ về làng và cái đình làng./.
…………
(1) Cũng nói “Dân dĩ thực vi thiên”: Dân coi cái ăn bằng Trời,

1 nhận xét:

TRẦN QUANG LỘC nói...

Chuc anh ngay nghi cuoi tuan vui, khoe va viet it nhat mot bai but ky hay.