.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012



Ví không có cảnh Đông tàn”
                                                            
Tản văn của Huỳnh Kim Bửu






           Năm có bốn mùa, mỗi mùa có thú riêng. Nguyễn Bỉnh Khiêm yêu thích cái thú của bốn mùa: “Thu ăn măng trúc Đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen Hạ tắm ao”. Vì chúng ta đang ở mùa Đông, cho nên bài này, tôi xin lạm bàn về cái thú mùa Đông ở quê tôi.
         
Mùa Đông ở đây bắt đầu từ những cơn mưa đầu mùa vào đầu tháng Mười âm lịch, thường là mưa chiều. “Tháng Mười ngó ra / Tháng Ba ngó vào” (Tục ngữ) ngó đây là ngó đám mây đen xuất hiện ở hướng bắc, thường phát cơn mưa chiều.
         Đến chừng giữa tháng Mười trở đi thì trời bắt đầu có những cơn mưa dầm, mưa tầm tã; nhìn ra dãy núi Bà thấy mây phủ, nhìn lên núi Mò O, thấy tuôn những dòng suối trắng xóa. Mưa dầm vài ba hôm, nước con sông Côn dâng cao. Cái làng quê của tôi đứng co ro trong gió mưa. Đây là lúc, các chợ quê bắt đầu bày bán những chiếc áo tơi lá, áo tơi chiếu cùng những hàng đó, giẹp, nơm, lờ đánh bắt cá đồng; đồng thời nơi gian hàng thực phẩm cũng bày bán những mẹt, những chậu cá đồng tươi sống vừa mới đơm bắt được trong lũ đầu mùa, trong nước lụt ói.
          Mấy ngày nay, người ta thường ở trong nhà, ít đi đâu ra ngoài, vì ngại cảnh đội mưa, lội bùn. Một hôm, có mấy người khách xuất hiện trên đường làng, họ vừa lội bùn bì bõm vừa say ngắm lũy tre làng ẩn hiện sau màn mưa, những mái tranh thở khói lam chiều mà họ cho là đẹp như tranh thủy mặc; được gặp và trò chuyện với những người đi đơm đó giẹp, đi đứng nhá, xúc cua trên cánh đồng nước lụt trắng lăng và nhiều tôm cá. Chẳng những thế, họ còn được hít thở mùi thơm phức của bánh xèo, cá đồng nướng, cá đồng kho, từ những mái nhà ai đó lan tỏa theo gió rồi đáp nhẹ vào mũi họ… Cũng nên nói, người quê tôi có cái thú ăn bánh xèo (đúc tôm thịt, dày) trong hơi mưa lạnh lẽo và tiếng mưa rơi rả rích. Nếu khách là người phong lưu, bậc tao nhân mặc khách được người quen trong làng cũng thuộc nòi tình cầm chân ở lại, khách sẽ được hưởng bao điều thú vị: Được mời ở trong ngôi nhà lá mái (hoặc ngôi nhà gạch năm gian hai chái) để hưởng sự ấm áp, được cùng chủ nhân thù tạc rượu ngon, trà thơm, cơm canh cá đồng, đàm đạo văn chương, ngâm vịnh theo cái thú: “Thu ẩm hoàng hoa tửu / Đông ngâm bạch tuyết thi” của người xưa, mặc cho những cơn gió mưa ở bên ngoài. Cũng có thể ở đây, khách được ngắm vẻ đẹp “trong tranh” của người thiếu phụ ngồi lặng lẽ “đan đi đan lại áo len cho chồng” (Thơ TTKH) hoặc nghe chủ nhân kể câu chuyện một chinh phụ thương chồng ở trong làng, cứ mỗi độ Đông về, nàng lại sắm áo “ngự hàn” gởi ra cho chồng là chinh phu đang ở ngoài biên ải. Cảnh đó, sẽ khiến khách liên hệ đến câu thơ xưa: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” để có cớ ở nán thêm vài bữa nữa với chủ nhân, với cái làng quê thịnh tình, hiếu khách. Trời mưa, làm cho những người có hồn nghệ sĩ hay bâng khuâng nghĩ ngợi, buồn vô cớ: “Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn” (Huy Cận) hay nhớ nhau không rõ nguồn cơn: “Mưa chi mưa mãi / Lòng nhớ nhung hoài / Nào biết nhớ nhung ai!” (Lưu Trọng Lư). Trong làng An Định, có kẻ giàu người nghèo. Người giàu mỗi năm một lần được hưởng cái thú áo dạ áo len, mền đơn mền kép. Ai có bụng tốt thì chạnh thương người chịu cảnh “cơ hàn”. Dầu sao, những gia đình nghèo cũng cố tìm cho mình có cái “thú” Đông về. Họ nằm ngủ ổ rơm mà so sánh với người có chăn êm nệm ấm, họ ăn cá đồng, ăn bánh xèo thỏa thích mà tưởng chừng mùa Đông, mặt nào đó, đã ưu đãi công bằng cho mọi người. Má mất đã mấy mươi cái giỗ, nhưng anh em chúng tôi vẫn thường nhắc những kỷ niệm mùa Đông với má. Nhớ cả nhà quanh bếp lửa hồng sưởi ấm và nghe má kể chuyện “đời xưa”, nhớ những đêm mấy má con cuộn tròn trong ổ rơm, nhớ dáng má nằm lắng nghe tiếng sấm cửa ồ ồ từ Giã (tên gọi các cửa biển, cũng để chỉ cho Quy Nhơn, theo cách gọi của dân gian thời ấy) vọng lên mà lo chuyện lành dữ của thời tiết…
         Rồi có một ngày thời tiết bỗng khủng khiếp: Mấy hôm nay bầu trời nặng như chì, kế tiếp là cơn bão từ biển Đông đổ bộ vào.
         Cả vùng thuộc hai bên con sông Côn bị bão lũ, đâu cũng xơ xác, tiêu điều. Trong làng An Định, những chiếc sõng úp lâu ngày trên rường nhà, nơi hiên nhà nay được “hạ thủy”. Sõng chở người chạy lũ, chở người đi vớt củi trôi, đi đuổi vịt đàn trôi lạc… Và kể cả những chiếc sõng đò dọc đò ngang dưới màu trời đùng đục nặng nề, màu nước bạc mênh mang. Tôi đã từng chứng kiến những túp nhà tranh gió cuốn, những ngôi nhà cũ nát trôi sông, những tình cảnh đáng thương và cả những tấm lòng vàng dành cho nhau để làm dịu nỗi đau của nhau trong ngày bão lũ tàn phá.
        Chỉ có lũ trẻ nhỏ dại khờ chúng tôi là “vô tư” trong những ngày bão lũ. Chúng tôi kéo nhau đi dẫm nước, chống sõng, chống bè, lấy bậc thềm nhà mình làm “bến thuyền”, vườn chuối nhà mình làm “xưởng đóng thuyền bè”… Tôi có kỷ niệm “ngày xưa” với thằng Nhịn, thằng Nghèo, con Nhín… trong những buổi lén má, lén anh Hai “tổ chức” hạ trộm cây chuối tơ trong vườn nhà ông Phó Thì để đóng cái bè chuối; với anh Cu Tý, người “khéo” bày tôi đi giở giẹp trộm, trút cá trộm của ông Mười Thắng để bị ông tóm cổ, nhận nước một trận thiếu điều chết… Đó, đều là những kỷ niệm đáng xấu hổ.
        Ông Trời in hình bão lâu cũng hết gió, mưa lâu cũng cạn nước, có ráng lắm thì cũng “Ông tha bà không tha, lụt hăm ba tháng Mười – Âm lịch”. Sau đó, người ta còn có non một nửa Mùa Đông, một cảnh Đông tàn với những ngày mưa phùn gió bấc. Những ngày này, nhà nông quê tôi tở mở ra đồng “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Nông vụ tấn thời, họ vừa lo cho vụ Đông Xuân sắp tới vừa kháo nhau: “Năm tới, nhờ mưa thuận gió hòa, đồng ruộng thế nào cũng tốt, nhà nhà sẽ được cái cảnh no đủ”. Người ta vừa làm vụ Đông Xuân vừa tổ chức đám cưới, “đẩy mạnh” mùa cưới, bởi lẽ: “Gái sao gái chẳng biết lo / Đại tuyết, Đông chí nằm co một mình” (Ca dao). Cả tháng nay, nhiều nhà trong làng An Định cất rạp, chăng đèn kết hoa làm lễ đón dâu mới, đưa con gái về nhà chồng. Đám cưới rước qua bến đò Bầu Sáo, rước đi trên đường đê hoa gạo nở đỏ rồi vào làng cho trẻ già trai gái tò mò kéo nhau ra xem họ hàng, xem mặt cô dâu chú rể,  trầm trồ cô dâu chú rể đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa.
         Vừa mới rảnh việc đồng áng, ba tôi liền cuốc mảnh sân rêu nhà mình để trồng rau cải… Hằng ngày, từ sáng sớm, với ấm chè nóng đặt dưới hiên nhà, kèn thuốc lá trên môi, ba tôi bón tưới, chăm chút từng rò rau cải, nâng đỡ từng cây hành ngò… Trải qua mấy tiết Đông chí, Tiểu hàn, sân rau cải của ba tôi lên màu xanh mượt. Sân rau cải của các nhà khác ở trong làng cũng nhờ công chăm bón mà lên tươi tốt trong cái se lạnh của buổi cuối Đông.
        Và cũng trong cái se lạnh cuối Đông ấy, chợ làng họp đông người, người làng An Định sắm mâm cỗ ăn Tết Đông chí để tiễn đưa mùa Đông. Mâm cỗ nhà nào cũng thịt thà, cơm canh, giò chả, con gà quay tháng Mười mập tròn, tươm mỡ (Ếch tháng Ba gà tháng Mười – câu nói dân gian). Một hôm, ông Tú An Định (ông tên Lễ, đỗ Tú tài, nhưng người ta lấy tên làng gọi thay tên ông để tỏ sự kính trọng) đến nhà tôi chơi, đứng hồi lâu nhìn ngắm những chậu hoa mai, hoa cúc, hoa vạn thọ… trên thềm nhà nở hoa sớm và những giàn đậu Ngự, đậu Hòa Lan rung rinh hoa trái đầu mùa, ông cao hứng ngâm: “Ví không có buổi Đông tàn / Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày Xuân” rồi theo chân ba tôi vào nhà, uống trà.

Không có nhận xét nào: