Tản văn Huỳnh Kim Bửu
Vườn cũ
Bây giờ, ngồi với tuổi bóng xế
của mình, người ta hay nhớ quê, nhớ cha nhớ mẹ nay đã không còn, nhớ những kỷ
niệm ngày xưa…Tôi cũng vậy, và tôi cũng hay nhớ những mảnh vườn cũ – nơi tôi
tin rằng sẽ còn lưu giữ mãi mãi những kỷ niệm thời tuổi thơ của tôi.
Ngôi nhà của Ba Má tôi tọa
lạc giữa một mảnh vườn rộng rãi. Từ tuổi lên tư - năm, hằng ngày tôi đã ra vườn
dạo chơi một mình. Tôi thích cưỡi “ngựa phi đàng xa…” trên con ngựa gỗ Ba đặt ở
một góc vườn, dành cho tôi. Vườn có bóng râm mát, cho tôi thích tung tăng với
bóng mình, bóng lá trên đầu. Mỗi lần ra vườn cùng các chị, tôi luôn được chị hái
cho ăn những quả ngon, thường là chuối, xoài, mận, ổi… chín bói hoặc dơi ăn dở,
rứt từ trên cành xuống.
Tuổi tôi mỗi ngày mỗi lớn và
mỗi ngày tôi thêm quấn quít với mảnh vườn nhà mình: Đi học về, vội nhảy ra
vườn; leo trèo, hái quả, “múa gậy vườn hoang” (lời các chị mắng tôi) …là ở
vườn. Tôi cũng hay rủ bạn nhỏ hàng xóm sang chơi. Nhiều khi, chúng tôi chọn một
góc vườn làm “sân khấu” cho một “đêm” hát bội. Tuồng tích để diễn thì mới vừa xem
nơi lễ hội đình làng, còn mũ mão, xiêm, giáp, chằm bằng lá mít, lá chuối; lấy mo
tre, mo cau, tổ dồng dộc làm giày hia, trông cũng oai lắm. Tôi cũng đã không
ngại, sau cuộc chơi xong, vẫn thường đãi bạn một mâm ngũ quả chín… héo (thường thì chuối ngả non, xoài rụng…) mà tôi đã
ra công thu gom để dành từ hôm trước.
Tôi nhận ra mảnh vườn quanh
năm cho mình nhiều hương thơm và mật ngọt. Tháng giêng – hai, tôi được hưởng
cái ngan ngát thơm hoa bưởi, hoa chanh, hoa xoài, hoa mận…Tháng ba – tư - năm,
tôi được hít thở khoan khoái mùi thơm lựng mật ngọt của đủ thứ trái chín: xoài,
mít, mía mưng, nhãn lồng, ổi xá lị…Tôi có cảm giác mùi đó nó đang đặc quánh ở
trong vườn, cho tôi hít thở no nê, đã đời, lấy đó làm niềm hạnh phúc của một
cậu bé con tham ăn và hảo ngọt. Đây là lúc mùa Hè đến, mùa trái cây chín. Những
năm đi học xa nhà ở trường Phủ An, cứ đến Tết Đoan Ngọ tôi được về nhà ăn tết
với gia đình, ăn một cái tết mà người ta gọi là “Tết trái cây”. Má bảo, Hè đến trái
cây chín rộ, cho nhà nhà có nhiều hoa trái mà ăn Tết, dâng cúng ông Khuất
Nguyên, mỗi năm một lệ vào ngày mồng năm tháng năm. Hồi đó, tôi thắc mắc, không
biết sao, mọi nhà cúng ông Khuất Nguyên bằng trái cây? Rồi cũng Má trả lời, bởi
ông ta là nhà thơ có tâm hồn rất mực thanh tao, cao nhã. Tháng chín - mười gió
mưa sụt sùi, lụt lội, tôi không thích đi đâu, chỉ thích ngồi nhà nhìn mưa rơi
ngoài vườn. Một cái vườn sũng nước, một màn mưa trắng đục, cây cối vật vã và
nhòa trong cơn gió mưa. Nhiều lần trong cảnh ấy, tôi được nghe chú Tư (em trai
Ba tôi) đi học College Quy Nhơn về, đứng ngồi trông mưa mà hứng thú ngâm thơ: “Mưa chi mưa mãi / Lòng nhớ nhung hoài / Nào
biết nhớ nhung ai!...” (Lưu Trọng Lư). Giọng ngâm thơ của chú như lời năn
nỉ, thở than, một niềm nhung nhớ xa vời vợi…nó bắt tôi phải mủi lòng đồng cảm
với tác giả bài thơ và thương cho chú mình, thương cho cái tâm hồn đa sầu đa
cảm của chú. Những khi Ba Má đi về Ngoại, có dẫn tôi đi. Có phải chăng, tại
mảnh vườn cho tôi nhiều thụ hưởng, cho nên đi đâu xa ít ngày là tôi nhớ vườn và
cứ mong về? Tôi nhớ nhất, con ngựa gỗ ngoài vườn Ba cho, để tôi “cưỡi phi đàng
xa”, nhớ những cây lành, quả ngọt ở trong cái vườn mà sau này hồi tưởng lại, tôi không khỏi
bảo, đó là cái vườn địa đàng tuổi thơ của mình …
Tôi thích làm vườn. Được nghỉ
học, thế nào tôi cũng ra vườn để cùng Ba Má, cùng chị xách nước tưới cây, cắm
thêm cành chái cho dây dưa leo đang tìm chỗ bò, săm soi mấy nụ hoa cà tím tím
vừa có con ong bay về thụ phấn, rồi bay đi… Công việc tôi làm, nhiều khi không thành,
để cho Ba phải sửa lại, các chị có cớ mắng rằng, tôi là thằng táy máy, con khỉ thấy
gì cũng bắt chước. Đi ngoài đường, gặp cây ổi chim ăn rớt hột, mọc bờ mương, tôi
nhổ đem về trồng góc vườn; trồng thêm cây chanh, cây bưởi bên thềm giếng cho
thêm hương thơm những khi mẹ và các chị ngồi gội tóc…
Tôi không thể không nhắc tới vườn
chùa Phước Đức của làng tôi. Tòa chánh điện của chùa thấp thoáng dưới tán xanh
um cổ thụ, cổng tam quan soi bóng nước hồ sen dập dờn phía trước. Vườn chùa
Phước Đức rộng rãi, râm mát bóng những hàng cây hoa đại, hoa ngọc lan, cây thị
sai quả ngan ngát mùi thơm; đứng sừng sững từ bao giờ những ngôi bảo tháp mà
tôi biết đó là nơi cất giữ hài cốt của các vị Tổ quá cố của chùa. Mỗi lần đi
trong vườn chùa tĩnh lặng, tán lá mát rượi trên đầu, tôi luôn cảm giác rằng đây
là một cảnh giới đã lọc hết bụi trần vốn gây bao điều khổ đau, phiền não cho
con người.
Và tôi cũng có những mảnh
vườn hoang để cùng chúng bạn lui tới, thường là các bạn chăn thả trâu bò. Vườn
hoang đa phần là vườn vô chủ, bày ra cảnh nền cũ, giếng lạn, đâu cũng trùm lấp lá
khô và cỏ dại. Cũng còn lại vài bóng cây cao đứng ở mấy góc vườn. Đến vườn
hoang, lũ trẻ nhỏ này thích lục lạo, tìm kiếm cái quả ngon, vật lạ: chùm trâm
chín tím, chùm chà là chín sẫm, quả trứng cá chín đỏ, chùm sung hườm hườm… Có
cái vườn hoang, hôm bới đất chơi, trồi lên ông bình vôi bằng sứ men xanh mà sứt
miệng, cái xâu đồng tiền nửa han rỉ, hỏi ra, biết là tiền Quang Trung Thông Bửu…Thằng
cu Lia, cu Mọi đi đâu cũng thủ sẵn ná cao su, chực bắn cái này, vật nọ. Nhưng
vào vườn hoang, chúng chỉ dám bắn con cu cườm nhảy mặt đất, con chim cuốc lủi
bờ rào, chứ đâu dám giương ná bắn con chèo bẻo, con chim khách tinh nghịch trên
cành cây cao, ỉa sọt sẹt cục cứt trắng non, rớt xuống đầu chúng. Vì chúng sợ
hòn đất vô tình bắn ra nhằm phải Cô Bà khuất mặt, linh thiêng đang ngự trên đó,
như điều người lớn vẫn dạy bảo chúng, chớ đừng quấy phá mà bị quở. Nhưng người
ta đã bảo đi đêm, gặp ma mà. Có hôm, ông chủ mảnh vườn hoang kia học đâu phép độn thổ thình lình xuất hiện giữa
vườn, như vừa đội đất chun lên. Thế là ông rượt bắt bọn này, hụt hết, chỉ tóm
được Cu Mọi. Chủ vườn xách tai nó đến hỏng chân cho đau trào nước mắt ra, và bảo
để trị cái tội nó là thả trâu giẫm nát bờ rào vườn ông.
Vườn cũ bây giờ đã thay đổi
nhiều. Ba tôi mới mất vài năm nay, nhưng ông đã không còn làm chủ ngôi vườn của
mình từ mấy chục năm trước. Xã quê nhà, bây giờ đã là xã chuyên canh cây mai
xuân và cây bonsai. Người ta đã có thói quen tính toán, một mét vuông đất đặt
được bao nhiêu chậu kiểng. Mà chậu kiểng đặt đến đâu thì tre pheo, xoài, mận,
ổi, cam, rau, ớt… phải nhường chỗ, cho nhà nào nhà nấy hằng ngày ra chợ mua
rau, cà, chanh, ớt đem về ăn. Việc tính toán này chẳng những ở trong các vườn
nông dân mà còn lan đến vườn chùa Phước Đức, cùng mấy mảnh vườn hoang trước kia
chỉ để cho cỏ dại mọc. Cũng phải thôi, vì cây mai xuân và cây bonsai An Nhơn
đang có thương hiệu mạnh, được cả nước ưa chuộng và đang tạo nên cảnh ăn nên
làm ra vui vẻ cho vùng đất này.
Việc đổi thay những mảnh vườn
nằm trong cuộc đổi thay cuộc đời chung ở một miền quê. Dẫu sao, tôi cũng không
khỏi luyến tiếc những cái vườn cũ của quê tôi. Tôi nhớ nhung, luyến tiếc lắm
tiếng chim vườn cũ, tiếng gió đập tàu tiêu, màu nắng râm mát, cái hương, cái
mật của vườn…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét