Bút ký của Huỳnh Kim Bửu
KÝ ỨC THÀNH CỔ BÌNH ĐỊNH
Ít
có đâu như An Nhơn, một miền đất nhỏ mà hai lần là kinh đô của hai vương triều
và một lần là thủ phủ của một tỉnh. Thành Đồ Bàn là kinh đô của Chiêm Thành, kể
từ thời vua Ngô Nhật Hoan ( thế kỷ thứ X) tám thế kỷ sau thành này được đổi tên
là thành Hoàng Đế, làm đế kinh của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc, triều Tây
Sơn. Tới thời nhà Nguyễn với chủ trương trả thù, xóa bỏ tàn tích cũ của nhà Tây
Sơn, thành Hoàng Đế bị triệt hạ để lấy gạch nung và đá ong xây thành mới là
thành Bình Định ở phia Nam, cách chừng năm cây số, để làm thủ phủ của tỉnh Bình
Định. Thủ phủ này kéo dài cho tới khi Nguyễn Hy làm Tổng đốc Bình Định (khoảng
1934 – 1935) mới được dời về Quy Nhơn (1).
Thành Bình Định trong ký ức tuổi thơ của tôi là một ngôi
thành bị đập phá từ hồi nào, đã trở thành hoang phế. Trong thành không còn hành
cung, dinh thự nhà cửa gì hết, nền cũ, thềm xưa còn trơ ra mấy nếp, mấy bậc lở
lói… Đường trong thành còn để lại dấu tích là các ô đường bàn cờ, nhưng đã bị trùm
lấp bởi các loại dây leo và giống cỏ dại, có sức lan tỏa rất nhanh; kế đến là những
hàng cây gòn thân cao, đứng thẳng, xòe tán rộng trên cao thường có chim chóc
bay về… Cũng có một ngôi chùa cổ là chùa Bửu Long ở gần cửa Tiền (còn gọi là
cửa Nam), dành riêng cho các quan chức và gia đình của họ đi lễ Phật. Khi ngôi
thành trở thành hoang phế, tiếng chuông chùa sớm chiều vẫn ngân nga xuống phố,
nhưng dường như có vẻ u trầm hơn, thường gợi cho người mộ đạo hiểu sâu xa thêm
cái lẽ vô thường nơi cõi trần thế.
Cây gòn ở đây nhiều lắm và còn được trồng lan ra ở cả ngoài
phố chợ nữa. Tán gòn giao nhau trùm mát các lối đi, nhiều khoảng đất rộng rãi
trong thành, nó tạo nên một vùng xanh um cổ thụ. Hiếm thấy ở bất kỳ đâu như ở thành Bình Định, khi vô số những
trái gòn kia đến mùa nở bông và sẵn sàng tung lên bầu trời, thả bay theo chiều
gió những chùm bông sợi màu trắng tinh anh, trông rất mênh mông, phiếu diểu. Bạn
đang đi trên đường phố, một mảng bông gòn thình lình đáp nhẹ lên mũ, lên đầu,
lên mặt bạn…Bạn vừa đi vừa gỡ mảng bông gòn tinh nghịch ấy, cũng thấy vui vui.
Thành còn để lại tường cao, hào sâu vây bọc xung quanh và ba
cửa thành mở ra ba hướng khác nhau.
Tường cao cho những người chăn thả trâu bò lên đó ăn cỏ, và người
ta cũng thích leo lên cao để tìm cái “bát ngát xa trông” ở quang cảnh trời đất bốn
bên. Hào sâu thì mọc đầy bèo lục bình, cho cá quẫy, cũng có chỗ cho người ta thả
những dề rau muống nước nở hoa màu tím trên cái nền rau xanh ngắt trải ra dưới
nắng.
Thực ra là có bốn cửa thành.
Cửa Tây mở ra cho người các làng phía Tây thành như Kim Châu,
Hòa Cư đi chợ Bình Định, cửa Đông cho dân phố chợ, dân làng An Ngãi, người các
nơi khu Đông thành đi lên ga xe lửa Bình Định, đi đất võ An Thái ở phía cực tây
huyện, non mươi cây số. Thỉnh thoảng có những chuyến xe ngựa ngược xuôi, chở
hành khách chạy qua thành, chui vào các cửa Đông, Tây, thường được nghe mùi ẩm
ướt và rêu mốc từ vách đá ong của cửa thành tỏa ra. Tựa vào cửa Tây, có ông lão
chuyên trồng hoa và bán kẹo kéo dựng nhà tranh vách lá ở tạm. Không ai biết,
ông lão từ đâu đến, một người ngụ cư, cô độc. Ngày ngày, ông làm kẹo kéo, mang
đi bán rong ngoài phố huyện với chiếc bàn xếp quay số trên vai; thì giờ còn lại
ông trồng hoa và chăm hoa. Ông có những chậu hoa nở tứ thời, rồi cứ mỗi độ đến
Tết thì vườn hoa của ông nở rộ. Những chậu hoa cúc, mai, hồng, thược dược...khoe
hương sắc từ bàn tay ông trồng, được người trong phố huyện Bình Định và các
vùng phụ cận đua nhau đến mua, đem về thưởng xuân.
In đậm trong ký ức tôi là cửa Tiền thành Bình Định. Mặc dù cửa
này đã sụp đổ, hoang phế mà bóng kỳ đài với trụ cờ hình xương cá cao chót vót
vẫn còn đó, người trong thành đứng đâu cũng nhìn thấy. Và còn nữa, trước mặt
cửa Tiền thành là một bến sông hằng ngày vẫn nghe được tiếng mái chèo khua nước
và tiếng gọi đò vọng tới – bến Trường Thi. Cách bờ bên kia bến sông không xa (trong
làng Hòa Nghi – quê ngoại của nhà thơ Yến Lan) là trường thi Hương Bình Định
được lập ra để tuyển chọn cử nhân cho mấy tỉnh trong vùng Nam Trung Kỳ. Bến
Trường Thi sẽ mãi gắn liền với lịch sử khoa cử, còn bến "My Lăng'' của nhà
thơ Yến Lan (trong nhóm Bàn Thành tứ hữu: Quách Tấn – Hàn Mạc Tử – Chế Lan Viên
– Yến Lan) thì cùng với nhà thơ mà lưu danh mãi:
"Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng
buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên
mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn
râu"
Cửa Đông thành Bình Định mở ra cho
thông thương với khu phố thương mại và chợ Bình Định (Còn gọi là chợ Gò Chàm) với
phố xá và cảnh bán buôn. Nghe nói hồi xưa, cửa Đông cũng là cửa để đón các quan trên về kinh lý. Cửa
Đông sẽ mãi gắn liền với lịch sử đấu tranh chống Pháp và triều đình Huế bằng cuộc
nổi dậy đòi giảm sưu thuế, bị đàn áp đẫm máu, hồi năm 1908. Nhà ở của các nhà
thơ Yến Lan, Chế Lan Viên cạnh cửa Đông. Cho nên, đây cũng là nơi nhóm “Bàn
thành tứ hữu” thường hội tụ lại để ngâm vịnh và gắn kết keo sơn thêm tình thi
hữu bền vững hiếm có. Cách nay mấy năm, người ta xây dựng lại cửa Đông với ý
tưởng phục hồi lại cửa này, nhưng đã không thành, vì cửa mới là cửa lầu, hoành
tráng và hiện đại quá, không giống chút gì với cửa Đông cũ đơn sơ mà đậm nét cổ
xưa. Đường phố không rộng, nhà phố lợp ngói âm dương, mái hiên thấp, trồi sụt
khác nhau. Nhà nào cũng mở tiệm, tiệm người Việt, người Hoa san sát nhau. Người
Việt buôn bán hàng trống, hàng vải, hàng đồng, hàng đường; người Hoa bán thuốc
Bắc, trà Tàu, hàng mã, nước tương …Con phố sầm uất nhất là đoạn Quốc lộ số 1
chạy ngang qua, trên phố này có nhà Bưu điện và mấy tiệm bán sách, báo.
Chợ Bình Định là chợ Khu Vực, chung cho
các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Đắc Lắc…cho nên chợ được xây dựng với quy
mô to lớn (cột lều bê tông – cốt thép, khung lều sắt tây, mái lợp ngói Phú
Phong ) hàng hóa thì nhiều, không thiếu những mặt hàng nổi tiếng của Bình Định,
như đồ cẩn xà cừ, đồ đồng thau, đồ thêu thùa, tơ lụa, đường cát... Và có cả
trâu khỏe, bò sức, ngựa hay… bán ở Chợ Gia súc gần đó.
Còn cửa Bắc là cửa dẫn giải tù nhân bị
án tử hình đi xử chém. Cửa này bị lấp kín lại từ lâu lắm, không để lại một dấu
tích gì, ngoài các cụ già kể lại.
Đứng trên mặt tường thành bao bọc
bốn bên, nhìn bao quát, sẽ thấy phía Đông với bốn ngôi cổ tháp có tên là tháp
Bánh Ít như bốn dấu chấm than chấm lên vòm trời xanh lơ. Phía Nam là hòn Ông, hòn Bà hùng vĩ, uy
nghi; tương truyền hòn Ông là núi đá nam châm, cho nên người ta đồn rằng, thời
kháng chiến chống Pháp, máy bay Pháp không dám bay ngang qua, vì sợ “núi hít”!
Phía Tây, dòng sông Côn chảy lững lờ giữa ruộng đồng mênh mông, bát ngát. Có
một ngã ba sông với cái đập nước Phụ Ngọc thường đổ nước ầm ào cũng bát ngát,
mênh mông, và hay nhuộm màu ráng đỏ mỗi chiều về. Phía Bắc xa xa, một quần thể
danh lam thắng cảnh: thành Hoàng Đế, núi Bà, hòn Mò O (còn gọi là hòn Mù U)
tháp Cánh Tiên, tháp Phốc Lốc, chùa Thập Tháp A Di Đà... Nó có cái kỳ vĩ, cẩm
tú, hữu tình của nước non, nhưng cũng chứa chan vị ngậm ngùi của mấy lớp phế
hưng, dâu bể trong chiều dài lịch sử. Có
câu ca dao cũng là câu hát ru em của vùng nầy:
''Ngó lên hòn núi Mù U
Thấy ba ông cọp đội dù nấu cơm
Một ông xách chén đi đơm
Hai ông ứ hự nồi cơm mới vần''.
Người ta vẫn bảo, đó là câu ca tả việc bếp núc, ăn uống của
đạo quân ông Nhạc khi về tập luyện và dưỡng quân ở đây. Lại có chuyện kỵ binh
Tây Sơn tập trận ở tháp Bánh Ít. Sau mỗi buổi tập, đàn voi ngựa xuống bến sông Tân An (dưới chân tháp) tắm mát
và uống nước :
“Nước Tân An có bao giờ cạn
Dẫu trăm voi, ngàn ngựa uống
tối ngày
Nghĩ người Nhạc, Huệ tài
thay
Cờ đào áo vải mà dày nghĩa
nhơn''.
Má tôi thường đọc ''Vè ông Tiến sĩ'', tả cảnh ông Tiến sĩ Hồ
Sĩ Tạo thủ lĩnh phong trào kháng thuế năm 1908 ở Bình Định bị bắt giam, cùng
với các đồng chí của ông, cho anh em tôi nghe. Bị ám ảnh bởi tiếng kèn trong
mấy câu vè ''Đêm năm canh kèn thổi tò toe / Ngày sáu khắc đứng ngồi chẳng
tiện / Thiếu chi kẻ thiên kinh vạn quyển / Lâm cảnh tù hiền giả hóa ngu'' cho nên khi đi học tiểu học ở trưòng huyện lỵ Bình Định,
tôi thường thơ thẩn trong thành vào những buổi nghỉ học để tìm xem, đâu là dấu
tích còn lại của đồn lính, trại giam ngày xưa, nơi Tổng đốc Bình Định giam cầm
những người đi biểu tình.
Cho tới bây giờ, mỗi khi nhắc lại hào khí
đánh Pháp những năm đầu của cuộc kháng chiến, người Bình Định, nhất là người An
Nhơn, không thể nào không nhắc lại những ngày đêm rầm rập, khẩn trương, cả
huyện đi phá thành Bình Định để “tiêu thổ kháng chiến”, ngăn bước tiến quân
thù. Hồi ấy, tâm trạng chung của nhiều người là rất tiếc ngôi thành cổ, một
công trình kiến trúc to đẹp không còn nữa, nhưng đành lòng chấp nhận. Vì người
ta tin rằng ngày mai mình sẽ được cái rất lớn là nước nhà độc lập, nhân dân ta
thoát khỏi đêm trường nô lệ, bước ra đón ánh sáng của cuộc đời tự do mà người
ta đã từng trăm năm, ngàn năm mơ ước.
An Nhơn ngày nay là một thị xã có cơ
cấu kinh tế công – nông – thương mại – dịch vụ hiện đại trên cơ sở “An Nhơn - đất
trăm nghề” có truyền thống từ xưa giờ. Các thành phần kinh tế này đang hoạt
động có hiệu quả. Thành cổ Bình Định được quy hoạch và xây dựng thành khu vực
hành chánh của thị xã với nhiều khối nhà to đẹp, bề thế. Cửa Lầu (tên gọi sau
khi người ta gỡ bỏ hai chữ Cửa Đông) là địa điểm thường tổ chức các sinh hoạt
văn hóa – văn nghệ của Hội Văn học – Nghệ thuật và Trung tâm văn hóa thị xã.
(1) Theo “Nước Non Bình Định” của Quách Tấn.