.


nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương - nơi hội tụ văn chương

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012


Vương Quốc Cổ " Toàn Núi Và Đền Thờ " Ở Tây Tạng

Đây là vương quốc đã có tuổi thọ hàng nghìn năm, là minh chứng sót lại của nền văn minh vào thế kỷ thứ 10 ở Tây Tạng.


Guge là một vương quốc cổ ở phía Tây của Tây Tạng. Được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 10, vương quốc Guge ra đời trên cơ sở của một vương quốc lân cận bị sụp đổ.

Vương quốc cổ
Tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử, vương quốc nắm quyền thống trị trên một lãnh thổ rộng lớn bao trùm phía Đông Nam Zanskar, Thượng Kinnaur và thung lũng Spiti (những vùng này nay thuộc Ấn Độ).

Vương quốc cổ
Đây một thời từng được xem là “cầu nối của các nền văn minh”, kết nối Trung Quốc, Nam và Trung Á.

Vương quốc cổ
Di tích của cố đô cổ nằm tại Tsaparang trong thung lũng sông Sutlej, không xa núi Kailash và cách khoảng 1.900km về phía Tây của Lhasa.

Vương quốc cổ
Tsaparang là một pháo đài khổng lồ ngồi trên một tảng đá hình kim tự tháp cao khoảng 152 – 183m.
Nó chứa rất nhiều đường hầm và hang động với các họa tiết được chạm khắc trên đá. Tại chân pháo đài là một ngôi làng mà người dân tập trung sinh sống.

Vương quốc cổ
Purang là khu vực trồng lúa mạch truyền thống quan trọng. Bên cạnh đó, người dân nơi đây còn thu gom muối từ các hồ muối phía Bắc của Taklakot và coi đây là ngành thương mại chính ở phía Nam. Gạo và một các sản phẩm xa xỉ khác được nhập từ Nepal.

Vương quốc cổ
Thung lũng Sutlej được coi là nơi hiện hữu nền văn minh cổ xưa của miền Tây Tây Tạng. Thung lũng là trung tâm của vương quốc, trải dài trên nhiều dặm cho đến chân núi Himalaya.
Trong đây còn xây dựng một cung điện cao chót vót ở thượng Sutlej gọi là Kyunglung. Trong ngôi làng Moincer, phía Tây Nam của núi Kailash vẫn còn lưu dấu ấn của những tàn tích tồn tại đến ngày nay.

Vương quốc cổ
Theo cách nhà khoa học, trong suốt hàng trăm năm, vương quốc Guge đã lớn mạnh không ngừng và tạo nên một nền văn minh độc đáo.
Và đỉnh cao của thời đại này là những thành tựu to lớn đạt được trong lĩnh vực kiến trúc, hội họa và ngành kim loại.

Vương quốc cổ
Trong pháo đài có hai ngôi đền Marpo Lhakhang (Nhà thờ Đỏ) và Karpo Lhakhang (Nhà thờ Trắng) và các khu cho các tu sĩ.
Để đến được khu hoàng gia và thăm quan cung điện mùa hè trên đỉnh pháo đài, bạn sẽ phải đi ngang qua một cầu thang đá xoắn trong đường hầm.

Vương quốc cổ
Những cấu trúc này đều có chữ khắc, tượng và tranh tường bên trong. Giá trị nghiên cứu to lớn của các kiến trúc đã ấn định di tích này vào nhóm đầu tiên trong các địa danh là di sản văn hóa cấp quốc gia.

Vương quốc cổ
Ngôi Đền Đỏ của Tholing là nơi tập trung các bức họa bích lâu đời. Các hiện vật còn nguyên vẹn và có giá trị nhất còn lại là các bức tranh tường gồm chân dung của Đức Thích Ca Mâu Ni, nhà vua và hoàng hậu của Guge, các quan chức hoàng gia.

Vương quốc cổ
Những bức tranh tường được vẽ theo phong cách Tây Tạng điển hình và một số kỹ thuật được cho là nghệ thuật đã bị thất truyền.
Sự phát hiện này rất quan trọng để phân biệt những phong cách nghệ thuật Phật giáo khác nhau của vương quốc Guge, đồng thời đưa ra bằng chứng quan trọng về thời kỳ khôi phục của đạo Phật từ cuối thế kỷ 10 đến thế kỷ 11 tại nơi này.

Vương quốc cổ
Piyang gồm hơn 1.000 hang động có hình dạng và kích cỡ khác nhau, trong đó có một số khu vực sinh sống của người dân, số khác là hang động thiền, và một số thì có kiến trúc thiết kế cho các buổi hành lễ.
Tàn tích Donggar là một ngôi làng nhỏ gần Piyang. Các nhà khảo cổ đã khai quật một hang động đặc biệt ở đây, đó là hang động Phật giáo lớn nhất Tây Tạng với niên đại 1.000 năm tuổi
 ( nguồn :Theo kenh14 )

KHÚC THÁNG CHẠP

Nguồn: nguyenthanhhien10blogspot.com

tranh : Park Hang Ryul ( from Gallery's Cristina Faleroni )

Em.
Nếu như việc ta và em nhận ra nhau như một kỳ tích giữa dòng sông cuộc sống thì có nghĩa gì việc ghi dấu thời gian có vẻ đoạn khúc riêng tư của con người. Tháng chạp là một cách ghi dấu thời gian có vẻ đoạn khúc của con người.
Tháng chạp.
Sao không phải lúc nào mà lại tháng chạp. Đi hỏi gió. Lạnh ngắt những cơn bấc  thổi muộn. Chỉ ở nơi đây, tháng chạp, mới lạnh ngắt những cơn bấc thổi muộn.


Em.
Nếu như việc ta và em  nhận ra nhau giữa cuộc trần gian rối rắm như một kỳ tích thì có nghĩa gì việc ghi dấu thời gian trên mặt đất này. Có cái chưa qua. Có cái đã qua. Là vì còn đợi chờ. Cuộc sống, ngoài những nội dung sinh tử khác, là một cuộc đợi chờ. Ta đã chờ em suốt những những nghìn năm. Để cho có cuộc nhận ra nhau giữa cuộc trần gian rối rắm.

Tháng chạp chỉ là một đoạn khúc có tính cách tư biện của con người. Đi hỏi lũ chim rừng. Chúng chỉ tiếp tục ca hát. Vì chẳng để ý chuyện tháng chạp của con người. Một kẻ con cháu người Aztec ở Trung Mỹ  khi nghe hỏi về chuyện tháng chạp, chỉ cười. Như lũ chim rừng, người Aztec ở Trung Mỹ chẳng để ý chuyện tháng chạp thuộc về  nơi chôn nhau cắt rốn của ta và em. Ta và em sinh ra đã thấy tháng chạp. Nhưng người Aztec sinh ra thì  thấy cái chu kỳ hủy diệt nghìn năm không mỏi. Chấm dứt tất cả. Để lại bắt đầu tất cả. Rốt cuộc thì người Aztec vẫn còn chờ. Bắt đầu một chu kỳ mới. Hay tháng chạp. Vẫn là một cuộc chờ đợi. Nhưng đi hỏi một người có đạo hindu ở Ấn Độ có tháng chạp hay không, người ấy cũng sẽ cười như người Aztec ở Trung Mỹ. Bỡi người  Ấn Độ hindu vừa sinh ra là đã nhìn thấy cái vòng tròn luân hồi bất tận. Quay suốt. Cái hôm nay sẽ trở thành cái hôm qua của ngày hôm sau. Cứ thế. Chẳng có tháng chạp. Cũng chẳng có một chu kỳ mới nào cả. Nhưng người  Ấn Độ hindu phải khổ công tu luyện vì lo lắng  chẳng được như ý vào ngày hôm sau. Còn lo lắng có nghĩa là còn chờ.


Almaisa


 Ta đã chờ em suốt những nghìn năm. Những ngày mặt trời luôn bị che khuất. Và những đêm trăng sao giá buốt ý nghĩ. Những nghìn năm vô vọng gặm nát những ý nghĩ về một thế giới trong lành. Nửa khắc giá buốt đợi chờ cũng hóa  nghìn năm. Vào những đêm trăng sao giá buốt, ta như nghe thấy những lời chân tình thốt lên tự buổi con người mới bắt đầu có tiếng nói con người. Những lời ngàn năm thơm ngát mùi cỏ cây. Vào những đêm trăng sao giá buốt ta như nhìn thấy hiển hiện ở đằng phía trước buổi trinh nguyên sáng lạn của loài giống con người. Chỉ ra dấu bằng ánh mắt. Không dám nói. Dẫu đã  biết làm ra tiếng nói. Sợ nói chẳng hết bằng lời nên khi yêu nhau chỉ ra dấu bằng ánh mắt. Ta như nhìn thấy những ánh mắt của những kẻ đang yêu của buổi trinh nguyên sáng lạn. Những nghìn năm chờ em ta đã nhận ra nỗi buồn của mặt đất. Nỗi buồn thấu núi sông.  Buồn vì những rối rắm chẳng thể nào xóa bỏ được của loài giống con người.
Tự thuở nào, ở nơi chôn  nhau cắt rốn của ta và em, tháng chạp là chấm hết một khúc đoạn tháng năm. Chấm hết. Nhưng chẳng hết. Bỡi năm sau lại có tháng chạp. Em. Nếu như việc ta và em nhận ra nhau như một kỳ tích nơi mắt đất này, thì có nghĩa gì việc đánh dấu một khúc đoạn tháng năm đã hết.

Tháng chạp bây giờ chỉ như một thứ ký ức êm ả trong ta và em. Ký ức về những tháng năm chờ đợi. Giống như lũ ong hút mật ký ức về hương thơm của những loài hoa. Nhớ về hương thơm mà đi tìm. Chỉ nhớ mà đi tìm. Bỡi lũ ong hút mật không biết cách ghi dấu tháng năm. Nói lũ ong hút mật nhớ mà đi tìm cũng chỉ là một cách tư biện của con người.

Em.
Có nghĩa gì việc ghi dấu tháng năm khi ta và em đã nhận ra nhau giữa cuộc trần gian rối rắm.  Bây giờ thì tháng năm chỉ như một nỗi niềm. Nỗi niềm của  năm tháng. Bây giờ thì ta và em đã bước sang phía khác của năm tháng. Phía của mãi mãi.

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012



Ví không có cảnh Đông tàn”
                                                            
Tản văn của Huỳnh Kim Bửu






           Năm có bốn mùa, mỗi mùa có thú riêng. Nguyễn Bỉnh Khiêm yêu thích cái thú của bốn mùa: “Thu ăn măng trúc Đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen Hạ tắm ao”. Vì chúng ta đang ở mùa Đông, cho nên bài này, tôi xin lạm bàn về cái thú mùa Đông ở quê tôi.
         
Mùa Đông ở đây bắt đầu từ những cơn mưa đầu mùa vào đầu tháng Mười âm lịch, thường là mưa chiều. “Tháng Mười ngó ra / Tháng Ba ngó vào” (Tục ngữ) ngó đây là ngó đám mây đen xuất hiện ở hướng bắc, thường phát cơn mưa chiều.
         Đến chừng giữa tháng Mười trở đi thì trời bắt đầu có những cơn mưa dầm, mưa tầm tã; nhìn ra dãy núi Bà thấy mây phủ, nhìn lên núi Mò O, thấy tuôn những dòng suối trắng xóa. Mưa dầm vài ba hôm, nước con sông Côn dâng cao. Cái làng quê của tôi đứng co ro trong gió mưa. Đây là lúc, các chợ quê bắt đầu bày bán những chiếc áo tơi lá, áo tơi chiếu cùng những hàng đó, giẹp, nơm, lờ đánh bắt cá đồng; đồng thời nơi gian hàng thực phẩm cũng bày bán những mẹt, những chậu cá đồng tươi sống vừa mới đơm bắt được trong lũ đầu mùa, trong nước lụt ói.
          Mấy ngày nay, người ta thường ở trong nhà, ít đi đâu ra ngoài, vì ngại cảnh đội mưa, lội bùn. Một hôm, có mấy người khách xuất hiện trên đường làng, họ vừa lội bùn bì bõm vừa say ngắm lũy tre làng ẩn hiện sau màn mưa, những mái tranh thở khói lam chiều mà họ cho là đẹp như tranh thủy mặc; được gặp và trò chuyện với những người đi đơm đó giẹp, đi đứng nhá, xúc cua trên cánh đồng nước lụt trắng lăng và nhiều tôm cá. Chẳng những thế, họ còn được hít thở mùi thơm phức của bánh xèo, cá đồng nướng, cá đồng kho, từ những mái nhà ai đó lan tỏa theo gió rồi đáp nhẹ vào mũi họ… Cũng nên nói, người quê tôi có cái thú ăn bánh xèo (đúc tôm thịt, dày) trong hơi mưa lạnh lẽo và tiếng mưa rơi rả rích. Nếu khách là người phong lưu, bậc tao nhân mặc khách được người quen trong làng cũng thuộc nòi tình cầm chân ở lại, khách sẽ được hưởng bao điều thú vị: Được mời ở trong ngôi nhà lá mái (hoặc ngôi nhà gạch năm gian hai chái) để hưởng sự ấm áp, được cùng chủ nhân thù tạc rượu ngon, trà thơm, cơm canh cá đồng, đàm đạo văn chương, ngâm vịnh theo cái thú: “Thu ẩm hoàng hoa tửu / Đông ngâm bạch tuyết thi” của người xưa, mặc cho những cơn gió mưa ở bên ngoài. Cũng có thể ở đây, khách được ngắm vẻ đẹp “trong tranh” của người thiếu phụ ngồi lặng lẽ “đan đi đan lại áo len cho chồng” (Thơ TTKH) hoặc nghe chủ nhân kể câu chuyện một chinh phụ thương chồng ở trong làng, cứ mỗi độ Đông về, nàng lại sắm áo “ngự hàn” gởi ra cho chồng là chinh phu đang ở ngoài biên ải. Cảnh đó, sẽ khiến khách liên hệ đến câu thơ xưa: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” để có cớ ở nán thêm vài bữa nữa với chủ nhân, với cái làng quê thịnh tình, hiếu khách. Trời mưa, làm cho những người có hồn nghệ sĩ hay bâng khuâng nghĩ ngợi, buồn vô cớ: “Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn” (Huy Cận) hay nhớ nhau không rõ nguồn cơn: “Mưa chi mưa mãi / Lòng nhớ nhung hoài / Nào biết nhớ nhung ai!” (Lưu Trọng Lư). Trong làng An Định, có kẻ giàu người nghèo. Người giàu mỗi năm một lần được hưởng cái thú áo dạ áo len, mền đơn mền kép. Ai có bụng tốt thì chạnh thương người chịu cảnh “cơ hàn”. Dầu sao, những gia đình nghèo cũng cố tìm cho mình có cái “thú” Đông về. Họ nằm ngủ ổ rơm mà so sánh với người có chăn êm nệm ấm, họ ăn cá đồng, ăn bánh xèo thỏa thích mà tưởng chừng mùa Đông, mặt nào đó, đã ưu đãi công bằng cho mọi người. Má mất đã mấy mươi cái giỗ, nhưng anh em chúng tôi vẫn thường nhắc những kỷ niệm mùa Đông với má. Nhớ cả nhà quanh bếp lửa hồng sưởi ấm và nghe má kể chuyện “đời xưa”, nhớ những đêm mấy má con cuộn tròn trong ổ rơm, nhớ dáng má nằm lắng nghe tiếng sấm cửa ồ ồ từ Giã (tên gọi các cửa biển, cũng để chỉ cho Quy Nhơn, theo cách gọi của dân gian thời ấy) vọng lên mà lo chuyện lành dữ của thời tiết…
         Rồi có một ngày thời tiết bỗng khủng khiếp: Mấy hôm nay bầu trời nặng như chì, kế tiếp là cơn bão từ biển Đông đổ bộ vào.
         Cả vùng thuộc hai bên con sông Côn bị bão lũ, đâu cũng xơ xác, tiêu điều. Trong làng An Định, những chiếc sõng úp lâu ngày trên rường nhà, nơi hiên nhà nay được “hạ thủy”. Sõng chở người chạy lũ, chở người đi vớt củi trôi, đi đuổi vịt đàn trôi lạc… Và kể cả những chiếc sõng đò dọc đò ngang dưới màu trời đùng đục nặng nề, màu nước bạc mênh mang. Tôi đã từng chứng kiến những túp nhà tranh gió cuốn, những ngôi nhà cũ nát trôi sông, những tình cảnh đáng thương và cả những tấm lòng vàng dành cho nhau để làm dịu nỗi đau của nhau trong ngày bão lũ tàn phá.
        Chỉ có lũ trẻ nhỏ dại khờ chúng tôi là “vô tư” trong những ngày bão lũ. Chúng tôi kéo nhau đi dẫm nước, chống sõng, chống bè, lấy bậc thềm nhà mình làm “bến thuyền”, vườn chuối nhà mình làm “xưởng đóng thuyền bè”… Tôi có kỷ niệm “ngày xưa” với thằng Nhịn, thằng Nghèo, con Nhín… trong những buổi lén má, lén anh Hai “tổ chức” hạ trộm cây chuối tơ trong vườn nhà ông Phó Thì để đóng cái bè chuối; với anh Cu Tý, người “khéo” bày tôi đi giở giẹp trộm, trút cá trộm của ông Mười Thắng để bị ông tóm cổ, nhận nước một trận thiếu điều chết… Đó, đều là những kỷ niệm đáng xấu hổ.
        Ông Trời in hình bão lâu cũng hết gió, mưa lâu cũng cạn nước, có ráng lắm thì cũng “Ông tha bà không tha, lụt hăm ba tháng Mười – Âm lịch”. Sau đó, người ta còn có non một nửa Mùa Đông, một cảnh Đông tàn với những ngày mưa phùn gió bấc. Những ngày này, nhà nông quê tôi tở mở ra đồng “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Nông vụ tấn thời, họ vừa lo cho vụ Đông Xuân sắp tới vừa kháo nhau: “Năm tới, nhờ mưa thuận gió hòa, đồng ruộng thế nào cũng tốt, nhà nhà sẽ được cái cảnh no đủ”. Người ta vừa làm vụ Đông Xuân vừa tổ chức đám cưới, “đẩy mạnh” mùa cưới, bởi lẽ: “Gái sao gái chẳng biết lo / Đại tuyết, Đông chí nằm co một mình” (Ca dao). Cả tháng nay, nhiều nhà trong làng An Định cất rạp, chăng đèn kết hoa làm lễ đón dâu mới, đưa con gái về nhà chồng. Đám cưới rước qua bến đò Bầu Sáo, rước đi trên đường đê hoa gạo nở đỏ rồi vào làng cho trẻ già trai gái tò mò kéo nhau ra xem họ hàng, xem mặt cô dâu chú rể,  trầm trồ cô dâu chú rể đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa.
         Vừa mới rảnh việc đồng áng, ba tôi liền cuốc mảnh sân rêu nhà mình để trồng rau cải… Hằng ngày, từ sáng sớm, với ấm chè nóng đặt dưới hiên nhà, kèn thuốc lá trên môi, ba tôi bón tưới, chăm chút từng rò rau cải, nâng đỡ từng cây hành ngò… Trải qua mấy tiết Đông chí, Tiểu hàn, sân rau cải của ba tôi lên màu xanh mượt. Sân rau cải của các nhà khác ở trong làng cũng nhờ công chăm bón mà lên tươi tốt trong cái se lạnh của buổi cuối Đông.
        Và cũng trong cái se lạnh cuối Đông ấy, chợ làng họp đông người, người làng An Định sắm mâm cỗ ăn Tết Đông chí để tiễn đưa mùa Đông. Mâm cỗ nhà nào cũng thịt thà, cơm canh, giò chả, con gà quay tháng Mười mập tròn, tươm mỡ (Ếch tháng Ba gà tháng Mười – câu nói dân gian). Một hôm, ông Tú An Định (ông tên Lễ, đỗ Tú tài, nhưng người ta lấy tên làng gọi thay tên ông để tỏ sự kính trọng) đến nhà tôi chơi, đứng hồi lâu nhìn ngắm những chậu hoa mai, hoa cúc, hoa vạn thọ… trên thềm nhà nở hoa sớm và những giàn đậu Ngự, đậu Hòa Lan rung rinh hoa trái đầu mùa, ông cao hứng ngâm: “Ví không có buổi Đông tàn / Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày Xuân” rồi theo chân ba tôi vào nhà, uống trà.

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012


Thư gởi bạn xa xôi,
Không đợi bạn phải nhắc đâu, mình cũng sẽ “tường trình” vắn tắt buổi trò chuyện về Thiền với Doanh nhân trẻ ở CLB 2030 vừa qua cho bạn đây!
Bạn biết đó, mình ít khi ra khỏi nhà vào buổi tối. Tuy ở Saigon hơn nửa thế kỷ mình vẫn là một người nhà quê, chưa biết cái “hộp đêm” nó khác với cái “hộp ngày” ra sao. Vậy mà lần này nhận lời mời của CLB 2030 chịu “xuống núi” một phen cũng lạ. Một phần cũng do cái thiết tha của các bạn trẻ CLB 2030, phần khác cũng do mình… tò mò, muốn biết giới trẻ – nhất là doanh nhân trẻ- bây giờ đời sống ra sao, tại sao họ lại quan tâm một đề tài có vẻ trái nghịch với nếp sống của họ: Thiền là buông bỏ, là thanh tịnh, độc cư…

  Từ ngày Âu Mỹ phát hiện ra Thiền có những hiệu quả tích cực trong chữa trị tâm bệnh, thân bệnh thì họ đã cật lực khai thác và không hiếm các “thiền sư” đưa ra rất nhiều lời khuyên dạy, nhiều người viết sách bày vẻ đủ thứ từ thần bí tâm linh đến khoa học hiện đại, gây khá nhiều hoang mang… Kông ít những doanh nhân trẻ vốn có cuộc sống luôn bận rộn, nhiều stress tìm đến Thiền như một giải pháp trị liệu hoặc phòng ngừa. Không chỉ thiền mà yoga, khí công, dưỡng sinh, quyền thuật các thứ vô cùng phong phú cũng được quảng bá. Không ít các lớp huấn luyện mở ra, rước thầy Ta, thầy Tây thầy Tàu, thầy Ấn về dạy, ai cũng muốn học trò mình mau đạt kết quả đến nỗi nhiều người lửng lửng lơ lơ, đau xương nhức khớp, thậm chí…tẩu hoả nhập ma! Ngành tâm lý trị liệu, tâm thần phát triển nhanh chóng hơn bao giờ hết.  Chính vì thế mà Chương trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu của Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) đã coi vấn đề “sức khỏe tâm thần” là một trong 3 ưu tiên bên cạnh sức khỏe người già và trẻ em. Thuốc điều trị tâm thần nay được coi là thuốc thiết yếu, đưa về tận y tế cơ sở như lao, sốt rét…

CLB 2030 của doanh nhân trẻ Saigon định kỳ có một buổi sinh hoạt vào tối thứ sáu cuối tháng gọi là Happy Friday. Số lượng thành viên khoảng 80 người. Khung cảnh là một quán café… lịch sự và sang trọng. Các bạn đều có vẻ thoải mái, tự tin, nồng nhiệt. Họ gặp mặt vừa để vui chơi, chia sẻ kinh nghiệm, quảng bá sản phẩm, làm marketing, PR các thứ và trao đổi một chuyên đề nào đó như lần này là về Thiền và doanh nhân!
Mình cũng đã có nhiều lần trò chuyện về Thiền, có khi ở… chùa với các nhà sư, ở toà  báo với nhiều đối tượng khác nhau, ở một quán Café với một nhóm trí thức, ở một đại học với các thầy cô và sinh viên… Lúc nào mình cũng chia sẻ những trải nghiệm thực tế từ góc độ của một người thầy thuốc, một người làm “khoa học thực nghiệm”, không đề cập các vấn đề tâm linh, siêu hình, lãnh vực “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghì”, dễ rơi vào dị đoan mê tín.
Với mình, mỗi buổi trao đổi trò chuyện như vậy đều là những cơ hội tốt để học hỏi, trui rèn, làm sáng tỏ, hiểu thấu đáo các vấn đề hơn.
  Mình nói đôi lời về lý do mình đến gặp các bạn, các doanh nhân trẻ hôm nay, biết họ đang muốn tìm một giải pháp cho một lối sống hạnh phúc, an lạc thân tâm và thành công trong sự nghiệp. Thiền có thể phần nào giúp có sức khỏe tốt hơn, ít phải lệ thuộc vào thầy vào thuốc, có tâm an lạc, đời sống cân bằng và hạnh phúc hơn. Nhờ biết chánh niệm tỉnh giác mà bữa ăn sẽ ngon hơn, giấc ngủ sẽ yên hơn; nhờ biết từ bi hỷ xả mà cuộc sống có ý nghĩa hơn, biết đối đầu với thất bại, biết “thưởng thức” thành công. Thiền còn giúp cho đầu óc sáng suốt hơn vì đã tạo ra những khoảng “không” cho trí tuệ. Steve Jobs cũng đã thiền mỗi ngày, nhờ đó mà “sáng tạo” ra nhiều ý tưởng mới lạ, mang lại hiệu quả kinh doanh cao… Mình chân thành chia sẻ những kinh nghiệm riêng tư rồi từng bước đi vào các phương pháp thực hành. Vì không nhiều thời gian, chỉ nếu những vấn đề thực tiễn có thể áp dụng ngay trong cuộc sống. Nhiều câu hỏi đặt ra rất hay. Có bạn lâu nay đã thực hành thiền, thấy có hiệu quả mà lù mù không hiểu tại sao, có bạn hỏi thiền giúp ích gì cho một… quan tòa, thiền giúp ích gì cho một người quá bận rộn trong thời buổi hiện nay…

Khi chương trình chuyển qua phần khác, mình vội chạy về theo dõi trận đá banh Việt Nam – Thái Lan AFF Cup tối hôm đó.  Thái Lan đưa đội hình hai vào đá, còn… bị đuổi bớt một người vậy mà vẫn thắng dễ. Mình nghĩ các cầu thủ và huấn luyện viên của mình cần thiền hơn ai hết. Đừng nên mất sức vì tập thể lực quá nặng, cũng đừng tuyên bố hùng hồn nhất định thắng, nhất định vào chung kết, không được phạm sai lầm v.v…!
Còn bạn, nghĩ sao?

Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(30-11-2012)